Bản án 06/2018/DS-ST ngày 28/02/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2018/DS-ST ngày NGÀY 28/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng xét xử  sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 218/2017/TLST - DS, ngày 20 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2018/QĐXXST-DS, ngày 12 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Bé S, sinh năm 1987; có mặt. Địa chỉ: Số 183, Khu phố 6, thị trấn G, huyện G, tỉnh K.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1983; vắng mặt.

2.2. Bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1983; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 15/6/2017 nguyên đơn là bà Lâm Thị Bé S trình bày:

Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2016 bà Phạm Thị Thanh T có vay tiền của bà nhiều lần, tổng cộng là 2.360.000.000 đồng. Lãi suất các bên thỏa thuận là 1%, 2% và 3%, tuy nhiên số tiền cụ thể và mức lãi suất thỏa thuận của từng lần bao nhiêu bà không nhớ. Mục đích bà T vay tiền để đáo hạn tiền vay của Ngân hàng, bà T chỉ đóng lãi trong năm 2015, đầu năm 2016 cho đến nay thì không đóng lãi. Ngày 01/10/2016, bà T ghi biên nhận nợ xác định còn nợ của bà số tiền vốn gốc là 2.360.000.000 đồng và cam kết đến ngày 18/10/2016 sẽ trả trước cho bà số tiền là 500.000.000 đồng nhưng vẫn không trả. Bà đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng bà T, ông Trần Văn Đ thanh toán nợ nhưng ông, bà vẫn không trả và đã bỏ địa phương đi từ năm 2016.

Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà T, ông Đ phải trả cho bà số tiền vay vốn gốc là 2.360.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Ông Đ, bà T đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập ông Đ, bà T đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông Đ, bà T vẫn vắng mặt, không rõ lí do.

Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng, về nội dung của Tòa án như sau:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định về thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Thẩm phán xử lý đơn khởi kiện khi chưa có quyết định phân công giải quyết đơn là còn vi phạm, cần khắc phục trong thời gian tới.

Về nội dung: Căn cứ biên nhận nợ do nguyên đơn cung cấp, lời khai của bị đơn tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh K, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bà Lâm Thị Bé S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Trần Văn Đ và bà Phạm Thị Thanh T trả số tiền vay nên quan hệ tranh chấp của vụ án là tranh chấp “Hợp đồng dân sự vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Bị đơn là ông Đ, bà T có địa chỉ nơi cư trú tại ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Knên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, đểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông Đ, bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của ông, bà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông, bà và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Đ, bà T là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy, theo bà S xác định trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến tháng 10/2016 bà đã cho vợ chồng ông Đ, bà T vay nhiều lần, số tiền vốn gốc tổng cộng là 2.360.000.000 đồng. Bà S đã cung cấp chứng cứ là “Biên nhận” ngày 01/10/2016 nội dung bà T có nhận của bà số tiền là 2.360.000.000 đồng.

Ông Đ, bà T không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của ông, bà đối với yêu cầu khởi kiện của bà S cũng không đến tham dự phiên tòa để đối chiếu nợ. Tuy nhiên, theo Biên bản lấy lời khai ngày 13/02/2017 và ngày 24/3/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công anh tỉnh K thì bà T đã xác định còn bà S số tiền vốn gốc là 2.360.000.000 đồng. Do đó, đủ căn cứ để xác định bà T có vay của bà S số tiền là 2.360.000.000 đồng.

Theo Biên bản lấy lời khai ngày 13/02/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh K, bà T xác định mục đích vay tiền là để thanh toán tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Trần Văn U từ năm 2010. Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Vì vậy, tuy ông Đ không ký biên nhận nợ nhưng mục đích vay tiền của bà T là vì nhu cầu thiết yếu của gia đình nên ông Đ cũng phải cùng thực hiện nghĩa vụ với bà T.

Theo lời khai của bà T tại Cơ quan điều tra thì tất các khoản vay của các chủ nợ, trong đó có khoản vay của bà S đều có thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nên hợp đồng vay giữa các đương sự là hợp đồng vay có thời hạn và có lãi. Theo quy định tại khoản 5 Điều 474 của Bộ luật Dân sự 2005 thì: “Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Xét thấy, bà S đã nhiều lần yêu cầu ông Đ, bà T thanh toán nợ nhưng đến nay ông Đ, bà T vẫn không thực hiện là vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện buộc ông Đ, bà T trả lại số tiền vay vốn gốc 2.360.000.000 đồng (hai tỷ ba trăm sáu chục triệu đồng) của bà S được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bà S không yêu cầu tính lãi nên HĐXX không xem xét.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[3] Về án phí:

Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Yêu cầu của bà S được Tòa án chấp nhận nên bà S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 39.600.000 đồng (ba mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008298 ngày 26/10/2017 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông Đ, bà T phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là: 72.000.000 đồng + (2.360.000.000 đồng - 2.000.000.000 đồng) x 2% = 79.200.000 đồng (bảy mươi chín triệu hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 269; Điều 271 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Điều 298, khoản 4 Điều 471 của Bộ luật Dân sự 2005;

Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Bé S đối với ông Trần Văn Đ và bà Phạm Thị Thanh T. Buộc ông Đ, bà T phải liên đới thanh toán cho bà S số tiền 2.360.000.000 đồng .

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu kho ản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Án phí:

Yêu cầu của bà S được Tòa án chấp nhận nên bà S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 39.600.000 đồng (ba mươi chín triệu sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008298 ngày 26/10/2017 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông Đ, bà T phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 79.200.000 đồng (bảy mươi chín triệu hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/DS-ST ngày 28/02/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:06/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về