TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 06/2018/DS-ST NGÀY 26/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Ngày 26 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 226/2017/TLST-DS ngày 11 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp “Hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXXST-DS ngày 11/01/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1983; (có mặt)
Trú tại: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh B.
2. Bị đơn: Lâm Sơn T, sinh năm 1967
Huỳnh Thị B, sinh năm 1969 (có mặt)
Cùng trú tại: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh B.
Anh Lâm Sơn T ủy quyền cho chị Huỳnh Thị B tại văn bản ủy quyền đề ngày 11/01/2018.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/12/2017, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:
Từ năm 2015 chị T có hợp đồng mua bán thức ăn gia súc với chị B, anh T. Hình thức mua bán chị T giao thức ăn cho chị B, anh T đến khi heo ra chuồng thì chị B, anh T thanh toán tiền. Thời gian lứa heo là 4 tháng đến 5 tháng. Nhưng chị B, anh T không thực hiện đúng thỏa thuận nên chị T chấm dứt hợp đồng mua bán từ tháng 6 năm 2017.
Sau đó chị B, anh T có bán heo con trừ tiền thức ăn nên còn nợ tổng số tiền là 75.834.000 đồng. Từ tháng 7 năm 2017 đến nay chị B, anh T đã ra heo nhiều lần nhưng không có thanh toán cho chị T. Nay chị T yêu cầu chị B, anh T trả cho chị T 75.834.000 đồng. Không yêu cầu tính lãi. Chị T không đồng ý trả dần.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn chị Huỳnh Thị B trình bày: Chị B thống nhất phần trình bày của chị T, hiện tại tổng số nợ còn lại là 75.834.000 đồng. Chị B đồng ý trả nhưng do chăn nuôi thua lỗ nên xin trả dần tháng 2.000.000 đồng, nếu có thu nhập thêm thì chị B sẽ trả thêm. Việc chăn nuôi là hai vợ chồng cùng chăn nuôi.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán trong quá trình thụ lý vụ án và giải quyết đúng quy định của pháp luật.
Việc tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật.
Việc tuân theo pháp luật của đương sự trong quá trình thụ lý và giải quyết thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 428, 438 Bộ luật dân sự năm 2015. chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T. Buộc anh Lâm Sơn T, chị Huỳnh Thị B liên đới thanh toán cho chị Nguyễn Thị T số tiền thức ăn chăn nuôi còn nợ là 75.834.000 đồng. Ghi nhận chị Nguyễn Thị T không yêu cầu tính lãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đương sự phát biểu tranh luận Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Nguyễn Thị T yêu cầu anh Lâm Sơn T, chị Huỳnh Thị B liên đới hoàn trả tiền thức ăn gia súc cho chị T là 75.834.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Căn cứ vào điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015, xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.
[2] Thẩm quyền xét xử: Theo xác nhận ngày 11/12/2017 của Công an xã Thanh Tân xác nhận anh Lâm Sơn T, chị Huỳnh Thị B có hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại xã T, huyện M, tỉnh B. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
[3] Thời hiệu khởi kiện: Chị T và chị B thống nhất thời điểm dừng giao dịch mua bán tháng 7 năm 2017 đến ngày 11/12/2017 chị T khởi kiện tại tòa án. Căn cứ vào điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015 thì còn trong thời hiệu khởi kiện.
[4] Nội dung vụ án:
Chị Nguyễn Thị T yêu cầu anh Lâm Sơn T, chị Huỳnh Thị B liên đới thanh toán tiền thức ăn gia súc cho chị T là 75.834.000 đồng và không yêu cầu tính lãi. Chị Huỳnh Thị B cũng thừa nhận hợp đồng mua bán thức ăn gia súc với chị T và còn nợ số tiền thức ăn gia súc của chị T là 75.834.000 đồng. Nhưng do hoàn cảnh khó khăn chị B xin trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng, nếu có khả năng sẽ trả nhiều hơn. Hội đồng xét xử xét thấy hợp đồng mua bán thức ăn gia súc giữa chị T với chị B, anh T được thực hiện từ thỏa thuận tự nguyện của bên mua và bên bán. Thỏa thuận bên bán giao thức ăn gia súc còn bên mua thanh toán tiền khi lứa heo ra chuồng. Bên bán chị T thực hiện đúng nghĩa vụ còn bên mua chị B, anh T thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán tiền. Chị B cho rằng do giá heo giảm nên thua lỗ, đến tháng 7/2017 hai bên kết sổ và có thỏa thuận anh T, chị B trả dần cho chị T nhưng chị B, anh T không thực hiện đúng theo thỏa thuận. Tại tòa chị T không đồng ý cho anh T và chị B trả dần. Như vậy, chị B và anh T vi phạm sự thỏa thuận của các bên nên chị T yêu cầu là có căn cứ chấp nhận.
[5] Anh Lâm Sơn T và chị Huỳnh Thị B phải chịu án phí dân sự giá ngạch 5% là 75.834.000 đồng x 5% = 3.791.000 đồng.
[6] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 428, 438 Bộ luật dân sự năm 2015. Tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T .
Buộc anh Lâm Sơn T và chị Huỳnh Thị B liên đới trả cho chị Nguyễn Thị T số tiền thức ăn gia súc là 75.834.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Án phí dân sự giá ngạch sơ thẩm: anh Lâm Sơn T, chị Huỳnh Thị B phải liên đới nộp 3.791.000 đồng.
Hoàn trả tạm ứng án phí cho chị Nguyễn Thị T là 1.895.000 đồng tại biên lai thu số 0008984 ngày 11/12/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc.
Án phí sung vào công quỹ nhà nước.
3. Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 06/2018/DS-ST ngày 26/01/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán
Số hiệu: | 06/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về