Bản án 05/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Phùng Đức H, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1984 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn H, sinh năm 1950 và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1954; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 04/4/2007 của công an phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn số tiền phạt 200.000 đồng; 02 lần bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc đều với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 879/QĐ- UBND ngày 08/5/2007 và Quyết định số 3169/QĐ-UBND ngày 29/11/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 21 tháng theo Quyết định số 27/QĐ-TA ngày 15/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo Quyết định số 01145QĐ/XPVPHC ngày 10/02/2019 của Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (các tiền sự trên đều đã được xóa); bị bắt tạm giữ từ ngày 20/11/2020, tạm giam từ ngày 23/11/2020 đến nay; có mặt.

2. Hoàng Trọng H, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1993 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn A, xã T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C, sinh năm 1975 và bà Dương Thị T, sinh năm 1975; Vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng bị kết án, xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/11/2020, tạm giam từ ngày 23/11/2020 đến nay; có mặt.

Người chứng kiến: Ông Trần Văn Hiền; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 20/11/2020, tại khu vực đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Công an phường Vĩnh Trại bắt quả tang Phùng Đức H và Hoàng Trọng H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, thu giữ của Phùng Đức H 01 (một) gói giấy màu trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng để trong lòng bàn tay trái và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Biển kiểm soát 12D1-109.49, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips; thu giữ của Hoàng Trọng H 02 (hai) xilanh, 02 (hai) lọ nước cất có chữ “DIMEDROL” trong túi áo khoác, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi.

Tại Kết luận giám định số 08/KL-PC09 ngày 21/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất cục bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,135 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 30/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Phùng Đức H và Hoàng Trọng H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 20/11/2020, trong lúc đang chăm sóc người nhà tại Bệnh viện Đ, Hoàng Trọng H gọi điện thoại rủ Phùng Đức H đi mua ma túy Heroine để cùng nhau sử dụng, Phùng Đức H đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 12D1- 109.49 đến chở Hoàng Trọng H đi mua ma túy. Khi đến khu vực trước cửa rạp chiếu phim Đông Kinh, Hoàng Trọng H đưa cho Phùng Đức H 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để Phùng Đức H đi mua ma túy, còn Hoàng Trọng H xuống xe và đi vào hiệu thuốc gần đó mua 02 (hai) bơm kim tiêm và 02 (hai) lọ nước cất để sử dụng ma túy. Sau khi nhận tiền từ Hoàng Trọng H, Phùng Đức H điều khiển xe mô tô đến quán nước khu vực cổng chợ Đ, đường N gặp và mua với một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) ma túy được 01 (một) gói giấy màu trắng có dòng kẻ bên trong chứa ma túy Heroine, Phùng Đức H điều khiển xe mô tô quay lại đón Hoàng Trọng H đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi cả hai đi đến khu vực đường N, phường V, thành phố L thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phùng Đức H và Hoàng Trọng H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Đức H từ 16 đến 18 tháng tù; xử phạt bị cáo Hoàng Trọng H từ 15 đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng chất ma túy là mẫu vật sau giám định, 02 (hai) xilanh, 02 (hai) lọ nước cất có chữ “DIMEDROL”; tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi; các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo Phùng Đức H và Hoàng Trọng H đều xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng, việc thu thập chứng cứ, tài liệu của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 20/11/2020, tại khu vực đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Phùng Đức H và Hoàng Trọng H có hành vi tàng trữ trái phép 0,135 gam chất ma túy Heroine. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Phùng Đức H và Hoàng Trọng H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Việc tàng trữ trái phép chất ma túy cũng như tệ nạn ma túy nói chung đang làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân, tiền đề làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội khác. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, thể chất của con người. Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo đều có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo Phùng Đức H đã 02 lần bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, đều đã được xóa nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Bị cáo Hoàng Trọng H chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Các bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho bản thân. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội, bị cáo thực hiện hành vi với vai trò đồng phạm giản đơn, bị cáo Hoàng Trọng H là người khởi xướng rủ rê và bỏ tiền mua ma túy để sử dụng; bị cáo Phùng Đức H tham gia phạm tội với vai trò tích cực, là người chuẩn bị xe, điều khiển xe chở bị cáo Hoàng Trọng H và là người trực tiếp trao đổi, mua ma túy và cất giấu ma túy sau khi mua được, Hội đồng xét xử xem xét, quyết định một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đó là cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, với một mức án tương đương nhau để các bị cáo có thời gian tập trung học tập, cải tạo và trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung., xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt là có căn cứ nên được chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các Biên bản xác minh ngày 04 và 08/12/2020 đều thể hiện các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng chất ma túy là mẫu vật sau giám định, 02 (hai) xilanh, 02 (hai) lọ nước cất có chữ “DIMEDROL đều là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng. Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi là phương tiện phạm tội.

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phùng Đức H do bị cáo Phùng Đức H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để xác minh, làm rõ để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[11] Đối với xe môtô biển kiểm sát 12D1-109.49, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là ông Lưu Ngọc L, sinh năm 1960, trú tại đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 20/11/2020, ông Lưu Ngọc L cho Phùng Đức H mượn nhưng không biết Phùng Đức H sử dụng xe môtô để đi mua ma túy. Ngày 27/11/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông Lưu Ngọc L nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[12] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[13] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 17; Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phùng Đức H, Hoàng Trọng H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Phùng Đức H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/11/2020.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Trọng H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/11/2020.

3. Xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định;

- 02 (hai) xilanh hiệu VINAHANKOOK, chưa qua sử dụng;

- 02 (hai) lọ thủy tinh hiệu DIMEROL, chưa qua sử dụng;

- 03 (ba) Sim điện thoại số thuê bao 0815464359, 0395530559, 0918021655.

3.2. Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu PHILIPS, vỏ màu vàng có nhiều vết xước bị móp méo, cạnh bên trái phía trên vỏ máy bị nứt, có số IMEI1: 865009030884857, IMEI2: 865009030884865, điện thoại cũ, đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, vỏ màu đen, số IMEI1: 865936054346605, IMEI2: 865936054664601, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31 tháng 12 năm 2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án án dân sự phố Lạng Sơn).

4. Về án phí:

Buộc các bị cáo Phùng Đức H, Hoàng Trọng H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về