Bản án 05/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Ma Văn L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 10 tháng 7 năm 1978; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: xóm NC, xã VC, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 04/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Ma Văn H (Đã chết) và bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1945; Vợ: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980; Con:

Có 02 con (lớn sinh năm 2002; nhỏ sinh năm 2012); Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 01; Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân: Ngày 22/9/2009 bị TAND huyện VN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”, đến nay đã chấp hành xong.

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương, có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980, có mặt. Địa chỉ: xóm NC, xã VC, huyện VC, tỉnh Thái Nguyên.

- Người làm chứng:

1. Cháu Ma Nhật M, sinh năm 2012, vắng mặt.

2. Anh Ma Văn C, sinh năm 1982, vắng mặt.

3. Chị Ma Thị D, sinh năm 1980, vắng mặt.

4. Anh Lý Quang Gi, sinh năm 1979, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: xóm NC, xã VC, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

- Người giám hộ cho cháu Ma Nhật M: Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980 (mẹ đẻ), có mặt.

Địa chỉ: xóm NC, xã VC, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

- Người tố giác tin báo tội phạm: Anh Nguyễn Tiến S, sinh năm 1983. Địa chỉ: xóm NC, xã VC, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Buổi sáng ngày 22/9/2020 chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980 cùng với chồng là Ma Văn L, sinh năm 1978 đều cư trú tại xóm NC, xã VC, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên đi ăn cưới cháu gái của L ở cùng xóm. Sau khi ăn cỗ cưới xong thì L về nhà trước còn chị H1 đi đưa dâu ở LN, Bắc Giang. Đến khoảng 19 giờ chị H1 về đến nhà không thấy L và con trai là Ma Nhật M, sinh năm 2012 ở nhà nên đã gọi điện cho L để hỏi thì được biết L và M đang ăn cơm tại nhà anh Nguyễn Văn B là người cùng xóm, cách nhà L khoảng 500m. Do đã muộn mà chưa thấy L và Mvề nhà nên H1 đến nhà anh B đón cháu M về học bài. Khoảng 21 giờ thì L về nhà trong tình trạng đã uống rượu say, khi đó thấy H1 đang dạy M học bài nhưng do M học chưa tốt nên chị H1 vừa dạy vừa cáu với M. Thấy vậy L đi đến gần rồi nói với H1 là “Con bé như thế vừa dạy vừa chửi như vậy thì sao nó học được” và H1 nói với M câu nào thì L nhại lại câu đó. Dẫn đến H1 bực tức không dạy nữa rồi hai vợ chồng xảy ra cãi nhau, H1 bỏ đi xuống bếp lấy cây đảo cám lợn được làm bằng cây mai cứng để ở góc bếp để đảo nồi cám đang nấu trên bếp. Khi H1 vừa đảo nồi cám xong thì L cũng đi theo đến đứng ở bên phải H1 cách H1 khoảng 01m, hai vợ chồng tiếp tục cãi nhau, L nói “Mày láo với tao à”đồng thời dùng tay phải giật lấy cây đảo cám lợn của H1 đang cầm trên tay phải và vung lên đánh một phát từ trên xuống dưới về phía đầu của H1, thấy vậy H1 đã giơ tay trái lên để đỡ nên bị đánh trúng vào bàn tay trái và phía sau đầu. Bị đánh nên H1 đã khóc và kêu lên rất to, L thấy vậy thì cũng dừng lại và đến gần H1 để xem H1 có bị làm sao không, thấy H1 bị chảy máu ở đầu, còn tay phải ôm chặt bàn tay trái và nói “anh đánh gãy tay em rồi" nên L dìu H1 đến ngồi ở cửa ra vào nhà sàn để cầm máu. Lúc này H1 lấy điện thoại ra gọi điện cho chị Ma Thị D, sinh năm 1980 là em gái ruột của L nhưng khi vừa bấm gọi thì L giật lấy điện thoại nói “để tao gọi chú C” tức Ma Văn C, sinh năm 1982 là em trai ruột của L nên khi D mở điện thoại lên thì D chỉ nghe thấy tiếng trẻ con khóc, đoán vợ chồng L có chuyện nên D đã cùng chồng là Lý Quang Gi đến nhà L xem có chuyện gì. Cùng lúc đó L gọi to sang nhà cho C biết để C giúp đưa H1 đi bệnh viện điều trị vết thương cho H1. Khi C đi đến nhà gặp L và được L nói cho biết việc L vừa đánh H1 xong và bảo C đưa H1 đi viện. Cùng lúc đó hai vợ chồng D, Gi cũng đi đến rồi cùng nhau đưa H1 đến Trạm y tế xã VC để sơ cứu. Do vết thương nặng nên H1 được đưa đến Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên để điều trị, hậu quả là H1 bị rách da phía sau đầu, bị đứt rách da ngón thứ ba bàn tay trái, tháo hai đốt ngón thứ 4 bàn tay trái. Đến ngày 29/9/2020 H1 được ra viện về nhà do đang bị đau không trực tiếp đi trình báo được nên đã viết đơn chuyển cho anh Nguyễn Tiến S, sinh năm 1983 (em trai ruột của H1) gửi đơn trình báo đến Công an xã VC, Công an xã VC đã chuyển hồ sơ cùng tài liệu đến cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại sổ bệnh án ngoại khoa số lưu trữ NGTK 202855, mã bệnh nhân 20195170 của Bệnh viện trung ương Thái Nguyên đối với bệnh nhân Nguyễn Thị H1 thấy: bệnh nhân có 01 vết thương vùng đỉnh chẩm phải sâu sát xương KT 01 x 10cm; Đốt 2 ngón 4 tay trái gãy rời từ vị trí đốt giữa, vết thương ở ngón III rách da vị trí mặt ngón tay đốt gần không đứt gân.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 553/TgT ngày 19/10/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Nguyễn Thị H1 hiện tại là 12%. Áp dụng theo phương pháp cộng theo Thông tư số 22/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế.

Cơ chế hình thành vết thương: Do tác động vật cứng có cạnh gây nên.

Về vật chứng: Sau khi gây thương tích cho H1, M lo sợ bố lại dùng để đánh mẹ nên đã cho vào đốt. Ngày 29/9/2020 Ma Văn L đã tự giác giao nộp 01 đoạn cây làm bằng mảnh cây mai đã khô dài 1,01m, phần rộng nhất có bản rộng 07cm, phần nhỏ nhất có bản rộng 05cm, có cạnh dày chỗ rộng nhất là 0,7cm mặt ngoài của cây màu xám, mặt trong hơi vàng, theo L khai nhận đây là đoạn cây mai có đặc điểm tương tự cây đảo cám lợn mà trước đó L đã dùng để đánh gây thương tích cho H1.

Về dân sự, Ma Văn L chưa bồi thường thiệt hại cho Nguyễn Thị H1.

Tại Bản cáo trạng số 03/CT-VKSVN ngày 18/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố đối với bị cáo Ma Văn L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự;

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện VN đã trình bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ma Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Ma Văn L từ 24 đến 30 tháng tù.

Về dân sự: Trong giai đoạn điều tra vụ án bị cáo chưa bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo L khai đã bồi thường cho chị H1 10.000.000đ, chị H1 thừa nhận đã nhận của bị cáo như đã trình bày bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Đề nghị HĐXX ghi nhận việc bị cáo đã bồi thường thiệt hại sức khỏe cho chị H1 số tiền 10.000.000 đồng.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật không có giá trị: 01 đoạn cây làm bằng mảnh cây mai đã khô dài 1,01m, phần rộng nhất có bản rộng 07cm, phần nhỏ nhất có bản rộng 05cm, có cạnh dày chỗ rộng nhất là 0,7cm mặt ngoài của cây màu xám, mặt trong hơi vàng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo nhất trí với bản luận tội, không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về hòa nhập cộng đồng và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN truy tố là đúng người, đúng tội.

Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, kết luận giám định về thương tích, lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và lời khai của những người làm chứng. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ ngày 22/9/2020 Ma Văn L đã có hành vi sử dụng 01 đoạn cây làm bằng mảnh cây mai đã khô dài 1,01m, phần rộng nhất co bản rộng 07cm, phần nhỏ nhất có bản rộng 05cm, có cạnh dày chỗ rộng nhất là 0,7cm mặt ngoài của cây màu xám, mặt trong hơi vàng đánh vào bàn tay trái và đầu của Nguyễn Thị H1 gây tổn hại sức khỏe cho H1 12%.

Hành vi của bị cáo Ma Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% … thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng … hung khí nguy hiểm …;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật quy định.

[3]. Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, mặc dù khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã uống bia rượu nhưng bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mình đã gây ra.

[4]. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo có bố là Ma Văn H được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba và Huy chương cựu chiến binh Việt Nam, ngoài ra bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Ngày 22/9/2009 bị TAND huyện VN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”, đến nay đã chấp hành xong.

[5]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6]. Về xử lý vật chứng: 01 đoạn cây làm bằng mảnh cây mai đã khô dài 1,01m, phần rộng nhất có bản rộng 07cm, phần nhỏ nhất có bản rộng 05cm, có cạnh dày chỗ rộng nhất là 0,7cm mặt ngoài của cây màu xám, mặt trong hơi vàng là vật chứng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra vụ án bị cáo L chưa bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai sau khi chị H1 đi viện về bị cáo đã đưa cho chị H1 10.000.000 đồng để bồi dưỡng sức khỏe. Tại phiên tòa bị hại chị H1 thừa nhận việc bị cáo có đưa 10.000.000 đồng để bị cáo bồi bổ sức khỏe nhưng do là vợ chồng nên không viết giấy tờ gì và tại phiên tòa hôm nay bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Hội đồng xét xử ghi nhận việc bị cáo đã bồi thường thiệt hại sức khoẻ cho bị hại số tiền là 10.000.000 đồng.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện VN tại phiên toà về hình phạt và các vấn đề có liên quan đối với bị cáo là phù hợp, Hội đồng xét xử thấy cần được chấp nhận.

Bởi các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Ma Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Ma Văn L 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 đoạn cây làm bằng mảnh cây mai đã khô dài 1,01m, phần rộng nhất có bản rộng 07cm, phần nhỏ nhất có bản rộng 05cm, có cạnh dày chỗ rộng nhất là 0,7cm mặt ngoài của cây màu xám, mặt trong hơi vàng .

(Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục THADS huyện VN theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện VN với Chi cục THA dân sự huyện VN, tỉnh Thái Nguyên ngày 21/01/2021).

3. Về trách nhiện dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự. Ghi nhận việc bị cáo đã bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại như sau:

Bị cáo Ma Văn L đã bồi thường cho chị Nguyễn Thị H1 số tiền 10.000.000 đồng.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo Ma Văn L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về