Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị H và anh Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ H VÀ ANH Đ

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2020/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 62/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1992 Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Hải Dương

- Bị đơn: Anh Đoàn Tăng Đ sinh năm 1983 Nơi cư trú: Thôn L, xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình (Tại phiên tòa có mặt chị H, vắng mặt anh Đ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/8/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đoàn Tăng Đ tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình ngày 20/10/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh Đ.

Cuộc sông hạnh phúc, hòa thuận đến tháng 12/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thương yêu thông cảm cho nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 01/2020, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Hải Dương sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, chị xin ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc A sinh ngày 28/5/2015, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Hiện tại chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải bị đơn anh Đoàn Tăng Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, thời gian mâu thuẫn và thời gian vợ chồng ly thân như chị Nguyễn Thị H đã trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H có mâu thuẫn với mẹ đẻ anh. Nay chị H có đơn ly hôn anh xác tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như chị H đã trình bày. Ly hôn, anh nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh với cơ sở Thôn L, xã K, huyện Quỳnh Phụ thấy: Chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ là vợ chồng, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể của vợ chồng cơ sở không biết, chỉ biết chị H có mâu thuẫn với mẹ đẻ anh Đ, hiện tại chị H không chung sống tại gia đình anh Đ nữa. Nay chị H có đơn xin ly hôn cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị H và anh Đ có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc A sinh ngày 28/5/2015, hiện đang ở với chị H. Ngoài ra, anh Đ còn có 01 con riêng là cháu Đoàn Đào T sinh ngày 19/5/2008, đang ở với anh Đ. Nếu Tòa án giải quyết cho chị H và anh Đ ly hôn về nuôi con và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung cơ sở không biết rõ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt, do đó Viện kiểm sát không đưa ra quan điểm chấp hành pháp luật của bị đơn tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Đoàn Tăng Đ, xử giao con chung Đoàn Thị Ngọc Asinh ngày 28/5/2015 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Anh Đ có quyền đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản: chị H và anh Đ đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; chị H phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Đoàn Tăng Đ, do anh Đ là bị đơn cư trú tại Thôn L, xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 50 ngày 20/10/2014 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 12/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thương yêu thông cảm cho nhau, ngoài ra chị H còn có mâu thuẫn với mẹ đẻ anh Đ. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, chị xin ly hôn anh Đ, còn anh Đ xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn, anh không đồng ý ly hôn nhưng anh Đ không tìm ra biện pháp nào có hiệu quả để hàn gắn, cải thiện quan hệ vợ chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả, mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh Đ là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ có 01 con chung là Đoàn Thị Ngọc Asinh ngày 28/5/2015. Ly hôn, chị H và anh Đ đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của anh Đ và chị H là chính đáng, cả hai đều có điều kiện nuôi con ngang nhau nhưng con chung đang ở với chị H, cháu còn nhỏ, giới tính nữ nên rất cần quan tâm chăm sóc đặc biệt của mẹ, nên cần giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Đoàn Tăng Đ.

2.Về nuôi con chung: Xử giao con chung Đoàn Thị Ngọc Asinh ngày 28/5/2015 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh Đoàn Tăng Đ cấp dưỡng cho con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Tăng Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị H nhận chịu cả 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số 0004556 ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đoàn Tăng Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị H và anh Đ

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về