Bản án 56/2019/DSST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 56/2019/DSST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 370/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2019/QĐST-DS ngày 27 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị VA, sinh năm: 1996(có mặt)

ĐKHKTT: Thôn A, xã XH, huyện LG, tỉnh Bắc Giang

Nơi cư trú: Thôn Ng, xã MT, huyện LG, tỉnh Bắc Giang

Bị đơn: anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1992 (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn A, xã XH, huyện LG, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 13 tháng 9 năm 2019 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Hoàng Thị VA trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang ngày 21/01/2016. Sau khi kết hôn, chị và T về chung sống, thời gian đầu vợ chồng hòa thuận. Mâu thuẫn xảy ra từ cuối năm 2016, nguyên nhân do anh T cờ bạc, không tu chí làm ăn nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau gay gắt, chị và gia đình hai bên có khuyên bảo, nhưng anh T không thay đổi. Chị quyết định không chung sống cùng anh T từ ngày 25/9/2017. Từ đó đến nay, vợ chồng không qua lại, mỗi người có cuộc sống riêng. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã gay gắt, kéo dài, chị đề nghị Tòa án cho chị và anh T ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 18/9/2016. Hiện con khỏe mạnh và đang sống cùng chị. Chị xin tiếp tục được nuôi con và yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con theo mức 1.000.000 đồng/01 tháng, thời gian đóng góp từ khi ly hôn cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

Anh Nguyễn Văn T tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai ngày 19/9/2019 trình bày: Về quan hệ hôn nhân anh xác nhận thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng anh đúng như chị VA đã khai. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng lúc đầu do anh ham chơi cờ bạc và nợ nần nhiều, chị VA đã chỉ trích anh rồi bỏ về nhà ngoại. Sau khi chị VA về nhà ngoại thì vợ chồng ít liên lạc, sau này thì anh biết được chị VA có quan hệ qua lại với người đàn ông khác nên giữa hai người mâu thuẫn càng gay gắt, không thể hòa giải được. Nay chị VA yêu cầu ly hôn anh nhất trí.

Về con chung: Vợ chồng có con chung như chị VA đã nêu và anh nhất trí để cho chị VA nuôi con, anh nhất trí đóng góp cấp dưỡng nuôi con như chị VA yêu cầu cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

Vì lý do công việc hiện nay không thể nghỉ vào thời gian làm việc trong ngày nên anh đề nghị Tòa án cho vắng mặt trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án.

Đại diện chính quyền địa phương nơi cư trú đã cung cấp anh Nguyễn Văn T và chị Hoàng Thị VA trong quá trình chung sống đã mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T ham chơi cờ bạc, mất nhiều tiền và hơn 02 năm nay chị VA đã về quê ngoại ở. Vợ chồng sống ly thân, không về ở với nhau. Quan điểm của chính quyền địa phương đề nghị Tòa án hòa giải, nếu anh, chị kiên quyết ly hôn thì xem xét, giải quyết theo quy định và giao cho chị VA nuôi con là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của cháu nhỏ Tại phiên tòa, chị VA vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, xin được nuôi con, yêu cầu anh T đóng góp mức cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Anh T vắng mặt và đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, không có vi phạm, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nhưng đã có đơn xin vắng mặt, nên HĐXX xét xử là đúng. Về nội dung, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho chị Hoàng Thị VA và anh Nguyễn Văn T ly hôn, giao chị VA nuôi con chung Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 18/9/2016 và buộc anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con theo mức 1.000.000 đồng/tháng, thời gian đóng góp từ tháng 11/2019 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về tài sản chung, công nợ chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí, nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Đơn khởi kiện của nguyên đơn Hoàng Thị VA cùng các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức và nội dung đơn khởi kiện, về chủ thể có quyền khởi kiện.

[2].Về thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung, các đương sự cư trú tại huyện Lạng Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang theo quy định tại điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã giải quyết vụ kiện theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Thẩm phán, thư ký và HĐXX đã chấp hành đúng pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, HĐXX căn cứ khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án.

[4]. Về nội dung:

Lời khai của chị Hoàng Thị VA và anh Nguyễn Văn T đều xác định anh, chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang ngày 21/01/2016, chứng cứ là giấy chứng nhận kết hôn số 11 ngày 21/01/2016 do UBND xã Xuân Hương cấp và xác nhận của UBND xã Xuân Hương, do đó quan hệ hôn nhân của chị Hoàng Thị VA và anh Nguyễn Văn T là hợp pháp.

Về mâu thuẫn: Chị Hoàng Thị VA và anh Nguyễn Văn T đều thừa nhận vợ chồng chung sống một thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn, bất đồng, nguyên nhân chính là do anh T ham chơi cờ bạc dẫn đến mất nhiều tiền, chị VA và gia đình có khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi. Vợ chồng đã sống ly thân từ 02 năm nay, không còn quan tâm đến nhau. Qua xác minh tại thôn, xã nơi cư trú cho thấy thực trạng mâu thuẫn của anh, chị đúng như lời khai. HĐXX xét thấy, trong quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng phải có trách nhiệm, nghĩa vụ với nhau trong xây dựng hạnh phúc gia đình, với con chung, nhưng anh T, chị VA đã có mâu thuẫn gay gắt nhưng hai năm qua, chị VA và anh T sống ly thân, không qua lại, không gặp gỡ để xem xét, hòa giải, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Nay xét thấy tình trạng hôn nhân của chị VA và anh T không đạt được mục đích mang đến hạnh phúc, sự gắn kết, mâu thuẫn trầm trọng, kéo dài, xét đề nghị của kiểm sát viên xử cho ly hôn là phù hợp nên HĐXX căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị VA, xử cho anh T, chị VA ly hôn.

Về con chung: Chị VA và anh T có một con chung Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 18/9/2016. Chị VA đề nghị được tiếp tục nuôi con và anh T nhất trí, do đó HĐXX xét ý chí tự nguyện của cả hai, đồng thời xét điều kiện của chị VA hiện nay có nghề nghiệp làm công nhân gần nhà, thu nhập ổn định, con còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nên quyết định giao cho chị VA nuôi cháu Linh.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị VA yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/tháng, thời gian đóng góp từ khi ly hon cho đến khi con đủ 18 tuổi, anh T nhất trí đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con theo mức trên nên HĐXX quyết định buộc anh T có trách nhiệm đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Hoàng Linh theo mức 1.000.000 đồng/tháng, thời gian đóng góp tính từ tháng 11 năm 2019 cho đến khi cháu Linh đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm con không ai được cản trở.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn, bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[7].Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 28, điều 35, điều 39; điều 147; điều 157; khoản 1 điều 228; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 57; 81; 82; 83; 110; 116; 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26, 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị VA.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị VA và anh Nguyễn Văn T ly hôn.

Về con chung: Giao cho chị Hoàng Thị VA quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 18/9/2016.

Anh T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Linh theo mức 1.000.000 đồng/01 tháng. Thời gian đóng góp từ tháng 11/2019 cho đến khi cháu Linh đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hoàng Thị VA phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số AA/2018/0007404 ngày 13/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang. Xác nhận chị VA đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành theo mức lãi suất quy định tại điều 357; khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyen án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

472
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 56/2019/DSST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:56/2019/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về