Bản án 05/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Thị Trúc H (tên gọi khác: M), sinh năm 2000 tại huyện N, tỉnh C; Nơi cư trú: Ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Thanh H1 và bà Nguyễn Thị H2; Bị cáo có chồng: Nguyễn Chí T; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2020, sau đó chuyển sang tạm giam ngày 07/01/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Trần Hùng Q, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Ấp Đầm Cùng, xã Trần Thới, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 31/12/2019 Võ Thị Trúc H điều khiển xe mang biển số kiểm soát 69L1-133.92 (xe của mẹ chồng bị cáo tên Nguyễn Thị N) từ nhà lên thị trấn C, huyện C, tỉnh C chơi. Đến khoảng 11 giờ, ngày 01/01/2020 H có nhờ bạn tên Nguyễn Chí T1 chở về thị trấn R, huyện N vì H thấy mệt trong người, do T1 bận công việc nên Thiện kêu Trần Hùng Q chở H về thì Q đồng ý.

Đến 13 giờ 20 phút cùng ngày, khi Q điều khiển xe mang biển số kiểm soát 69L1-133.92 chở Hồng, đến khu vực ấp R, thị trấn R thấy có dấu hiệu khả nghi nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N kết hợp với Đội cảnh sát giao thông, trật tự, cơ động tiến hành kiểm tra thì phát hiện trong túi áo khoác Jean bên trái của H có 02 bịt nilong là ma túy đá, túi bên phải có 01 ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy nên tiến hành bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số: 22/GĐH-PC09 ngày 03/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau xác định 02 bịt nilon màu trắng được niêm phong kín trong phong bì gửi giám định là mà túy có trọng lượng 0,3426 gam là chất Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại mục số 323, Danh mục II Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Vật chứng thu giữ:

- 02 bịt nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy, tổng khối lượng 0,3426 gam là chất Methamphetamine.

- 01 ống thủy tinh màu trắng dùng để sử dụng mau túy.

- 01 xe hiệu Sirius biển số kiểm soát 69L1-133.92.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu đỏ và sim số 0944.419.611.

- 01 áo khoác Jean màu xanh đen.

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 617.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 04/CT-VKS-NH ngày 02/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển truy tố bị cáo Võ Thị Trúc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Thị Trúc H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư là mẫu hoàn lại sau khi giám định số 22/GĐH-PC09 ngày 03/01/2020 bên trong có chứa 0,3007 gam là chất Methamphetamine, 01 (một) ống thủy tinh trắng trong, 01 (một) áo khoác Jean màu xanh đen.

Đối với 01 xe hiệu Sirius biển số kiểm soát 69L1-133.92, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu đỏ và sim số 0944.419.611 và số tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 617.000 đồng. Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo Hồng nên không đặt ra xem xét.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ngọc Hiển, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định. Bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, vật chứng Cơ quan điều tra thu giữ được, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01 tháng 01 năm 2020 của Công an huyện N, tỉnh C (BL 80, 81) và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bị cáo Võ Thị Trúc H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3426 gam ma túy, mục đích là để sử dụng cá nhân. Hành vi nên trên của bị cáo Võ Thị Trúc H đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Do đó Cáo trạng số 04/CT-VKS-NH ngày 02/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hiển truy tố bị cáo Võ Thị Trúc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng với lỗi cố ý, bị cáo đã tàng trữ số lượng ma túy là 0,3426 gam, mục đích là để sử dụng cho bản thân. Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội. Hành vi đó là nguy hiểm, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ tác hại của ma tuý đối với con người và đời sống xã hội nhưng vẫn cố tình phạm tội nên cần có mức án nghiêm khắc mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo.

[4] Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Thị Trúc H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện học tập, lao động trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Đối với nguồn gốc 0,3426 gam Hêrôin, bị cáo khai nhận do bị cáo mua của người không biết tên, tuổi và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[7] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 bịt nilon màu trắng bên trong có ma túy đá, tổng khối lượng 0,3426 gam là chất Methamphetamine (số ma túy nêu trên sau khi đưa đi giám định Cơ quan giám định hoàn lại là 01 (một) bì thư là mẫu hoàn lại sau khi giám định số 22/GĐH- PC09 ngày 03/01/2020 bên trong có chứa 0,3007 gam là chất Methamphetamine), 01 (một) ống thủy tinh trắng trong, 01 (một) áo khoác Jean màu xanh đen.

Đối với các vật chứng nêu trên không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe hiệu Sirius biển số kiểm soát 69L1-133.92, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu đỏ và sim số 0944.419.611 và số tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 617.000 đồng. Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo H nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 đồng. Bị cáo có nghĩa vụ nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[9] Bản án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Trúc H (tên gọi khác: M) 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, ngày 01/01/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư là mẫu hoàn lại sau khi giám định số 22/GĐH-PC09 ngày 03/01/2020 bên trong có chứa 0.3007 gam là chất Methamphetamine), 01 (một) ống thủy tinh trắng trong, 01 (một) áo khoác Jean màu xanh đen.

Vật chứng hiện nay do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 04/QĐ-VKS-NH ngày 02 tháng 3 năm 2020 và biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09 tháng 3 năm 2020.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Võ Thị Trúc H phải chịu 200.000 đồng. Bị cáo Hồng có nghĩa vụ nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về