Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 30/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 78/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 2 năm 2020 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị Ng, sinh năm 1992 Trú tại: Bản Noong L, xã Rạng Đ, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Cà Văn Kh, sinh năm 1989 Trú tại: Bản Noong L, xã Rạng Đ, huyện Tuần G, tỉnh Điện B vắng mặt có lý do. Hiện anh Kh đang chấp hành án tại đội 21, phân trại 3, trại giam Hoàng T, Cục C10, Bộ Công an (Phường Văn Đ, thị xã Chí L, tỉnh Hải D), vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11/02/2020, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Lò Thị Ng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Cà Văn Kh lấy nhau và có đăng ký kết hôn vào ngày 09/12/2014 tại Ủy ban nhân dân xã R Đ huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 4 năm, đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân anh Kh không tu chí làm ăn sử dụng ma túy khiến kinh tế gia đình lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, khiến cuộc sống hôn nhân không được hạnh phúc, mặc dù chị đã khuyên bảo nhiều lần song anh Kh không bỏ được. Chị đã nhờ thôn bản hòa giải để anh Kh tiến bộ sống có trách nhiệm với gia đình song anh Kh vẫn không bỏ được ma túy. Đến tháng 1 năm 2019 anh Kh đã bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Th, tỉnh Bắc N xử phạt 26 tháng tù, hiện anh Kh đang chấp hành án tại đội 21, phân trại 3, trại giam Hoàng T, Cục C10, Bộ Công an. Hiện nay một mình chị phải tự mình lao động nuôi 2 con nhỏ, chị xét thấy do anh Kh đã không làm tròn bổn phận nghĩa vụ của người chồng và người cha đối với các con khiến hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm của chị đối với anh Kh không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Kh.

Về quan hệ con chung: Anh chị có 02 con chung: Cháu thứ nhất là Cà Văn Ho sinh ngày 29/10/2009, cháu thứ 2 là: Cà Văn L sinh ngày 13/7/2011 nguyện vọng chị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu đến khi cháu thành niên và có khả năng lao động, chị không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, do anh Cà Văn Kh đang chấp hành án tại đội 21, phân trại 3, trại giam Hoàng T, Cục C10, Bộ Công an nên Tòa án ra Quyết định Ủy thác thu thập chứng cứ số 01/2020/QĐ - UT ngày 02/3/2020 và yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Chí L, tỉnh Hải D tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng thông báo thụ lý vụ án, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, hướng dẫn anh Kh viết bản tự khai, lấy lời khai bổ sung khi bản tự khai chưa đầy đủ, rõ ràng, viết đơn xin xét xử vắng mặt thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án. Tại bản tự khai ngày 11/5/2020 có xác nhận của trại giam Hoàng T, anh Kh thống nhất quan điểm: Về quan hệ hôn nhân, về nguyên nhân mâu thuẫn là do anh phạm tội mua bán ma túy và bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Th, tỉnh Bắc N xử phạt 26 tháng tù, hiện anh đang chấp hành án. Anh Kh không nhất trí ly hôn bởi anh vẫn còn tình cảm với chị.

Về con chung: Anh thống nhất anh chị có hai con như chị Ng trình bày, trong trường hợp nếu phải ly hôn anh đồng ý để chị Ng được nuôi cả hai con chung, về cấp dưỡng anh sẽ không cấp dưỡng nuôi con bởi anh đang chấp hành án.

Về quan hệ tài sản, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại đơn xin vắng mặt ngày 11/5/2020 có xác nhận của trại giam Hoàng T: Anh xin vắng mặt tại phiên họp, vắng mặt tại phiên tòa, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Ngày 16/4/2020 Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và đã thông báo kết quả cho anh Cà Văn Kh, anh nhất trí không có ý kiến gì.

Ngày 30/6/2020 Tòa án đã mở phiên tòa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 05/6/2020. Căn cứ vào đơn xin xét vắng mặt của anh Kh, Tòa án tiến hành xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật:

Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị Ng được ly hôn với anh Cà Văn Kh theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

 Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình: Đề nghị giao 2 cháu: Cà Văn H sinh ngày 29/10/2009 và Cà Văn L sinh ngày 13/7/2011 cho chị Ng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, chấp nhận sự tự nguyện chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Chấp nhận việc chị Ng, anh Kh không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ Luật TTDS và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Ng là dân tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí song chị không có đơn xin miễn án phí nên phải chịu án phí DSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị Ng và anh Cà Văn Kh đăng ký kết hôn ngày 09/02/2014 đến thời điểm Tòa án thụ lý và giải quyết Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đang có hiệu lực thi hành, vì vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải: Do anh Kh đang đi chấp hành án tại trại giam Hoàng T có ý kiến xin vắng mặt tại phiên họp và hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và thông báo kết quả cho anh Kh theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 210 Bộ luật Tố Tụng dân sự Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Ngày 30/6/2020 Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án, bị đơn có đơn xin vắng mặt. HĐXX căn cứ Khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ng và anh Kh lấy nhau có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống chị Ng và anh Kh đều thừa nhận nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do cuối năm 2018 anh Kh ăn chơi đua đòi và sử dụng ma túy và bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Th, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 26 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, hiện anh đang chấp hành án tại trại giam Hoàng T, từ sau tết năm 2019 chị Ng không còn đến thăm anh nữa. Về quan hệ hôn nhân anh không nhất trí ly hôn bởi anh vẫn còn tình cảm.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung của chị Lò Thị Ng: Tại biên bản xác minh ngày 13/3/2020 có xác nhận của chính quyền địa phương: Thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn do anh Kh sử dụng ma túy và bị bắt, chị Ng cũng đã khuyên bảo và nhờ trưởng bản hòa giải nhiều lần song anh Kh vẫn sử dụng ma túy rồi bị bắt hiên anh Kh đang đi chấp hành án, chị Ng một mình phải vất vả nuôi con.

 Về điều kiện nuôi con: Hai cháu Cà Văn H và Cà Văn L hiện đang ở với chị Ng, chị Ng ngoài làm ruộng còn đi làm thuê thu nhập khoảng 7 triệu đồng/tháng, đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

HĐXX xét thấy: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và Anh Kh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu, chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không đạt được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Mặc dù anh Kh có cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị Ng tuy nhiên qua quá trình anh chị chung sống, khi có mâu thuẫn xảy ra do anh Kh sử dụng ma túy, chị đã khuyên bảo nhiều lần để anh sửa đổi, tiến bộ và tu chí làm ăn, nuôi dạy con cái, có lúc đã nhờ thôn bản hòa giải song anh Kh không từ bỏ được việc sử dụng ma túy dẫn tới việc bị bắt và hiện đang chấp hành án tại trại giam. Việc anh Kh sử dụng ma túy và bị bắt và hiện đang phải chịu hình phạt theo quy định của pháp là anh Kh đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người chồng đối với chị Ng, trách nhiệm cùng chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cùng chị Ng không thực hiện được đã làm xói mòn tình cảm thương yêu của chị Ng đối với anh Kh, chị không còn tình cảm gì với anh Kh nữa. Anh Kh đã không nghe theo lời khuyên bảo của chị Ng, đã không tiến bộ, tiếp tục dấn thân vào con đường ma túy. Mục đích hôn nhân là yêu thương lẫn nhau, vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ và hạnh phúc không còn nữa, hôn nhân đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị Ng xin ly hôn với anh Kh cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Anh chị có 02 con chung: Cháu thứ nhất là Cà Văn H sinh ngày 29/10/2009, cháu thứ 2 là: Cà Văn L sinh ngày 13/7/2011 nguyện vọng chị Ng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu đến khi cháu thành niên và có khả năng lao động, chị không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai ngày 11/5/2020 anh Kh có ý kiến nếu vợ chồng anh phải ly hôn anh nhất trí để chị Ng chăm sóc nuôi dưỡng con chung, anh không cấp dưỡng vì anh đang chấp hành án không có điều kiện cấp dưỡng. Tại đơn nguyện vọng của cháu Cà Văn H và cháu Cà Văn L ngày 24/02/2020 hai cháu có nguyện vọng xin ở với mẹ. HĐXX căn cứ các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Ng giao 2 cháu Cà Văn H sinh ngày 29/10/2009 và Cà Văn L sinh ngày 13/7/2011 cho chị Ng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến đi thành niên và có khả năng lao động. Chấp nhận sự tự nguyện, chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về, chị Ng và anh Kh đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7]Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Ng phải chịu án phí 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2010/05646 ngày 25/02/2020 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tuần G, chị Ng đã nộp đủ án phí DSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị Ng được ly hôn với bị đơn anh Cà Văn Kh.

2. Về con chung: Giao 2 cháu Cà Văn H sinh ngày 29/10/2009 và Cà Văn L sinh ngày 13/7/2011 cho chị Ng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến đi thành niên và có khả năng lao động. Chấp nhận sự tự nguyện, chị Ng không yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Các bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ Luật TTDS và Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị Ng phải chịu án phí 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2010/05646 ngày 25/02/2020 tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo, chị Ng đã nộp đủ án phí DSST

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị Ng được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 30/6/2020; Anh Cà Văn Kh được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về