Bản án 05/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại hội trường nhà văn hóa tổ dân phố Phú Thái, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/ TLST-HS, ngày 30 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn V, sinh ngày 02/9/1975 tại xã T, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Tên gọi khác: Không. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm Tr, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, và bà Nguyễn Thị Th; có vợ: Dương Thị N và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 12 năm 2018 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên- bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1993/ có đơn xin xét xử vắng mặt.

Trú tại: Xóm Tr, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến:

1. Bà Trần Thị H, sinh năm 1968/ vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố B, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1953/ vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố B, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

3. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1977/ vắng mặt.

Trú tại: Tổ dân phố B, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 15 phút ngày 16/12/2018, tổ công tác Công an phường Lương Sơn, thành phố Sông Công tuần tra, kiểm soát tại khu vực đường dân sinh thuộc tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công phát hiện Nguyễn Văn V có biểu hiện liên quan đến ma túy nên yêu cầu kiểm tra hành chính đối với V. Ngay tại đó V đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nhỏ giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng V đang cầm trong lòng bàn tay phải, V khai đó là ma túy loại Heroine mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ số vật chứng và tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 20 G1-14124.

Tiến hành cân xác định trọng lượng 01 gói ma túy thu giữ của Nguyễn Văn V có khối lượng 0,177 gam. Tại bản kết luận giám định số 163/KL-PC54 ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn V ngày 16/12/2018 gửi đến giám định là ma túy loại Heroine.

Quá trình điều tra xác định do là đối tượng nghiện ma tuý, nên khoảng 7 giờ ngày 16/12/2018 V đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS: 20 G1-14124 từ nhà anh Nguyễn Văn Đoàn ở xóm Tr, xã T, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực chợ Vó Ngựa, phường Tân Thành, thành phố Thái Nguyên mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, V gặp và mua 01 gói Heroine của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ giá 200.000 đồng. Người đàn ông nhận tiền rồi đưa cho V 01 gói nhỏ giấy bạc màu trắng, V cầm gói ma túy bằng tay phải điều khiển xe mô tô về nhà. Khi đi đến khu vực đường bê tông thuộc tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công thấy vắng người, V dừng xe mô tô mục đích sử dụng trái phép chất ma túy, khi chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 20G1-141.24, quá trình điều tra xác định được là của anh Nguyễn Văn Đại là cháu của V, việc V sử dụng chiếc xe trên bà anh Đại không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Đại quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công truy tố bị cáo Nguyễn Văn V ra trước TAND thành phố Sông Công để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 BLHS. Kết thúc phần xét hỏi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn V đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS; Điều 38 BLSHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn V.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu T bên trong chứa 0,165 gam chất ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326 /2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định. Tuyên bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo:Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác của vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở xác định: Khoảng 7 giờ ngày 16/12/2018 V đi từ nhà anh Nguyễn Văn Đoàn ở xóm Tr, xã T, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực chợ Vó Ngựa, phường Tân Thành, thành phố Thái Nguyên mua của một người đàn ông không biết tên và địa chỉ 01 gói Heroin giá 200.000 đồng. Khi đi đến khu vực đường bê tông thuộc tổ dân phố Bần, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công V dừng xe mô tô định sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn V đã phạm vào Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) ...Hêrôin... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” ...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS viện dẫn ở trên.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn V là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng; xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy, làm tệ nạn ma túy diễn biến ngày càng phức tạp khiến dư luận quần chúng bất bình. Vì ma túy là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm, con đường lây nhiễm nhiều bệnh nan y, là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Mặt khác ma túy còn hủy hoại sức khỏe, kinh tế của chính người nghiện. Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục thành người lương thiện, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung đối với mọi người.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, bố bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống mỹ cứu nước, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Do đó trong lượng hình, HĐXX đã có xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt đối với bị cáo.

[4]Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo mua ma túy về sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích bán cho người khác thu lời bất chính và bị cáo không có điều kiện, khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu T bên trong chứa 0,165 gam chất ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 20G1-141.24 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công đã trả lại cho anh Đại quản lý, sử dụng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[7]Về nguồn gốc ma túy (Hêrôin) bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

[8]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9]Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội: “tàng trữ trái phép chất ma túy” .

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/12/2018.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS ra quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong chất ma túy kí hiệu T bên trong chứa 0,165 gam chất ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an thành phố Sông Công và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sông Công).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về