Bản án 05/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Đình Ng, sinh năm 1994; ĐKHK và cư trú: Thôn 3, xã Canh Nậu, huyện TT, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa lớp 7/12; con ông Lê Đình Tr và bà Nguyễn Thị Th; Vợ, con chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 26/11/2018, đến ngày 02/12/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

Ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Đỗ Sỹ D (Tên gọi khác M), sinh năm 1992; địa chỉ: Cụm 5, xã LH, huyện PT, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUnghĩa vụ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dunghĩa vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 26/11/2018, Lê Đình Ng đang chơi ở đám cưới gần nhà Ng thì có Đỗ Sỹ D (Tên gọi khác là M) ở xã LH, huyện PT, gọi điện thoại hỏi mua 500.000đ tiền ma túy đá và hẹn mang ra khu cánh đồng Gò Mả Vọng thuộc xã LH, huyện PT. Đồng thời D đi bộ ra chỗ hẹn đứng chờ Ng thì gặp Nguyễn Văn D1, sinh năm 1993 ở Cụm 1, xã LH, huyện PT. D và D1 đứng nói chuyện. Sau khi nghe điện thoại, Ng về lấy gói ma túy đá cất giấu ở cột điện gần nhà, rồi đi xe nhãn hiệu Honda DREAM BKS 29V5-206.83 ra chỗ hẹn thì gặp D và D1 đang đứng nói chuyện. Ng đi lại gần, thì D hỏi “Anh Ng à”, Ng trả lời “ừ anh đây”, D lấy 500.000đ đưa cho Ng, Ng cầm tiền và đưa lại cho D một gói ma túy đá. D vừa cầm gói ma túy định đi về thì tổ công tác của Công an huyện PT phối hợp với Công an xã LH đi tuần tra đến, thấy có biểu hiện nghi vấn, nên tổ công tác hỏi Ng, D và D1 đang làm gì, Ng khai nhận là vừa bán ma túy cho D và giao nộp số tiền 500.000đ nói là số tiền vừa bán ma túy có được. D cũng khai nhận là vừa mua ma túy đá của Ng và giao nộp 01 gói ma túy đá đang cầm trên tay.

Vật chng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng trong, kích thước khoảng 1x 1cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, thu giữ của Đỗ Sỹ D.

- 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen đã cũ, thu của Đỗ Sỹ D.

- 01 chiếc điện thoại Nokia màu trắng đã cũ, thu của Lê Đình Ng.

- 01 chiếc điện thoại IPHONE màu ghi xám đã cũ, thu của Lê Đình Ng.

- 01 xe máy nhãn hiệu HONDA Dream màu nâu đã cũ, BKS: 29V5 - 20683, thu của Lê Đình Ng.

- Số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), thu giữ của Lê Đình Ng.

Ngày 27/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện PT ra quyết định khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật, tài sản của Lê Đình Ng tại Thôn 3, xã Canh Nậu, huyện TT, Thành phố Hà Nội. Quá trình khám xét, Cơ quan điều tra thu giữ một số đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án gồm:

+ 01 vỏ gói nhỏ nilon trong suốt có kích thước khoảng 01 x 01cm;

+ 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng, một đầu vót nhọn chiều dài khoảng 6cm;

+ 02 vỏ gói nilon nhỏ trong suốt bị cắt hở một đầu (một gói có kích thước khoảng 01cm x 01cm, một gói có kích thước 01cm x 0,8cm);

+ 01 vỏ hộp giấy đựng điện thoại màu trắng bên ngoài có chữ OPPO có kích thước khoảng (15 x 8 x 6 )cm.

Ti bản kết luận giám định số 8997/KLGĐ - PC 09 ngày 03/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon (thu giữ của Đỗ Sỹ D) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,055 gam.

Ti Bản cáo trạng số 07/CT- VKS ngày 31 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội đã truy tố Lê Đình Ng về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Đi diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Đình Ng từ 24 đến 30 tháng tù. Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm: 01phong bì niêm phong của Phòng PC09 Công an Thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Lê Đình Ng, Đỗ Sỹ D và chữ ký của giám định viên phòng PC09, chữ ký của cán bộ Công an huyện PT, Thành phố Hà Nội. Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ gói nhỏ nilon trong suốt có kích thước khoảng 01 x 01 cm; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng, một đầu vót nhọn chiều dài khoảng 6cm; 02 vỏ gói nilon nhỏ trong suốt bị cắt hở một đầu (một gói có kích thước khoảng 01cm x 01cm, một gói có kích thước 01cm x 0,8cm); 01 vỏ hộp giấy đựng điện thoại màu trắng bên ngoài có chữ OPPO có kích thước khoảng (15 x 8 x 6 )cm.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ thu của Đỗ Sỹ D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng đã cũ thu của Lê Đình Ng và số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Đình Ng tại phiên tòa đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dunghĩa vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện PT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình Ng không có ý kiến và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh, khung hình phạt: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện PT đã truy tố. Mặt khác, lời khai của bị cáo cũng phù hợp với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng các vật chứng đã được Cơ quan điều tra thu giữ, Kết luận giám định số 8997/KLGĐ - PC09 ngày 03/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 2 giờ ngày 26/11/2018, Lê Đình Ng có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,055 gam cho Đỗ Sỹ D với giá 500.000đ, tại khu cánh đồng Gò Mả Vọng thuộc xã LH, huyện PT thì bị tổ công tác Công an huyện PT phối hợp Công an xã LH, huyện PT phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Như vậy, hành vi của Lê Đình Ng, đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện PT, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Ma túy, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, không những làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người mà còn làm ảnh hưởng đến kinh tế và hạnh phúc của nhiều gia đình. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối bản thân, gia đình và xã hội nhưng vì hám lợi nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, buộc bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội lần đầu, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người lao động thuần túy, không có khả năng và điều kiện về kinh tế để thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc số ma tuý: Lê Đình Ng khai mua ma túy của người đàn ông tên Đức ở gần trường tiểu học Bình Phú, huyện TT, Thành phố Hà Nội. Do Ng không biết rõ nhân thân lai lịch của người đàn ông này, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xác minh nên không đề cập xử lý tronghĩa vụ án này.

Đối với Đỗ Sỹ D (tên gọi khác M) là đối tượng đã mua gói ma túy của Ng, mục đích để sử dụng, do khối lượng ma túy thu giữ trên người của D lúc bị bắt quả tang là 0,055 gam chưa đủ định lượng, bản thân D chưa có tiền án, tiền sự gì, nên chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Công an huyện PT đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đỗ Sỹ D là phù hợp.

Đối với Nguyễn Chí D1, sinh năm 1993 trú tại Cụm 1, xã LH, huyện PT, thành phố Hà Nội là người đi cùng D. Quá trình điều tra xác định D1 hoàn toàn không biết việc D và Ng mua bán ma túy, Cơ quan điều tra đã nhắc nhở giáo dục đối với D1 là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ và chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện PT: 01 phong bì niêm phong của Phòng PC09 - Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Lê Đình Ng, Đỗ Sỹ D và chữ ký của giám định viên phòng PC09 Công an thành phố Hà Nội, chữ ký của cán bộ Công an huyện PT;

01 vỏ gói nhỏ nilon trong suốt có kích thước khoảng 01 x 01 cm; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng, một đầu vót nhọn chiều dài khoảng 6cm; 02 vỏ gói nilon nhỏ trong suốt bị cắt hở một đầu; 01 vỏ hộp giấy đựng điện thoại màu trắng bên ngoài có chữ OPPO có kích thước khoảng (15 x 8 x 6 )cm. Xét đây là vật liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội của Lê Đình Ng và do không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ thu của Đỗ Sỹ D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng đã cũ thu của Lê Đình Ng. Quá trình điều tra xác định số tiền 500.000đ là tiền D mua ma túy của Ng; 02 chiếc điện thoại này liên quan đến việc mua bán ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại di động IPHONE màu xám thu giữ của Ng. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này là của anh Nguyễn Văn Cường ở xã Canh Nậu, huyện TT sửa chữa tại cửa hàng, Ng lấy hộ nhưng chưa kịp trả cho anh Cường thì bị bắt và bị thu giữ. Ngày 16/01/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Cường.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Dream màu nâu đã cũ, BKS: 29V5 - 20683. Theo kết quả tra cứu thì chủ xe là của anh Nguyễn Phan Trường, sinh năm 1979 ở Tây Tựu, Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội bị mất trên địa bàn huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra Công an huyện PT đã chuyển chiếc xe máy trên và tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra Công an huyện Đan Phượng để xem xét giải quyết theo thẩm quyền.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình Ng 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án, bị cáo được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 26/11/2018 đến ngày 02/12/2018.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong của Phòng PC09 - Công an Thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Lê Đình Ng, Đỗ SỹD và chữ ký của giám định viên phòng PC09 Công an Thành phố Hà Nội, chữ ký của cán bộ Công an huyện PT và tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ gói nhỏ nilon trong suốt có kích thước khoảng 01 x 01 cm; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng sọc vàng, một đầu vót nhọn chiều dài khoảng 6cm; 02 vỏ gói nilon nhỏ trong suốt bị cắt hở một đầu; 01 vỏ hộp giấy đựng điện thoại màu trắng bên ngoài có chữ OPPO có kích thước khoảng (15 x 8 x 6 )cm.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ và 01điện thoại di động nhãn Nokia màu đen đã cũ, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu trắng đã cũ. (Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện PT quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/02/2019 giữa Công an huyện PT và Chi cục Thi hành án dân sự huyện PT, thành phố Hà Nội. Số tiền được nộp vào tài khoản theo Giấy nộp tiền ngày 31/01/2019 của Kho bạc Nhà nước huyện PT, Thành phố Hà Nội)

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thườnghĩa vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Đình Ng phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, quyền kháng cáo của bị cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy đinh tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 25/02/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về