Bản án 05/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 16 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 204/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1985.

Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn T1, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Chỗ ở: Ngõ X, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 11/12.

Họ và tên bố: Nguyễn Văn L, sinh năm 1959 (Đã chết).

Họ và tên mẹ: Hoàng Thị B, sinh năm 1963.

Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không có.

Tiền sự: Ngày 11/12/2017 bị Công an thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với mức phạt 1.000.000 đồng, chấp hành xong hình phạt ngày 15/12/2017.

Nhân thân:

- Ngày 27/6/2008 bị Công an phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” với mức phạt 300.000 đồng.

- Bản án số 204/2008/HSST ngày 28/11/2008 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn T 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Trị giá tài sản trộm cắp là 1.270.000 đồng).

- Ngày 03/02/2010 bị Công an phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” với mức phạt 150.000 đồng, chấp hành xong hình phạt ngày 02/3/2010.

- Bản án số 51/2010/HSST ngày 14/5/2010 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn T 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; chấp hành xong tiền truy thu và tiền án phí HSST ngày 17/12/2010.

- Bản án số 89/2012/HSST ngày 06/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn T 03 năm tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/02/2015.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Ông Phan Đình H, sinh năm 1949. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ B, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

2. Anh Trần Quang T, sinh năm 1973. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ B, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 20 phút ngày 06/10/2018 tại khu vực bờ đê xóm C, Tổ B, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, Công an thành phố B bắt quả tang Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T1, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; chỗ ở hiện nay: Ngõ X, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói giấy mầu trắng, bên trong đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy heroin, thu trong túi quần bên phải T đang mặc.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Dream II mầu nâu, biển kiểm soát 98F5- 8685, số máy JA27E- 0013129, số khung RLHJA2703DY013254; bên trong cốp xe có 01 xi lanh nhựa.

- 01 ví da mầu nâu, bên trong có 147.000 đồng và 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn T.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistas Laizumbos màu đen, màn hình bị vỡ.

 Vật chứng thu giữ được nghi là ma túy, Cơ quan điều tra Công an thành phố B đã niêm phong gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 1338/KL-PC54 ngày 08/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 phong bì thư đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột mầu trắng đựng trong 01 gói giấy mầu trắng là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,046 gam.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 06 giờ ngày 06/10/2018, Tùng từ nhà điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Super Dream II màu nâu, biển kiểm soát 98F5- 8685 lên khu vực bờ đê C, phường T, thành phố B, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến khu vực bờ đê C, phường T, T mua được một gói ma túy Heroin với giá 100.000 đồng của một người phụ nữ không quen biết. T cầm gói ma túy vừa mua được về nhà, kiểm tra thì thấy vỏ giấy đựng chất ma túy bị rách nên T bỏ vỏ giấy bị rách đi và lấy mảnh giấy vệ sinh gói chất ma túy lại rồi cất vào trong túi quần bên phải đang mặc. Khoảng 13 giờ cùng ngày, T từ nhà điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Super Dream II màu nâu, biển kiểm soát 98F5- 8685 mang theo gói ma túy đến nhà bà Hoàng Thị L, sinh năm 1955 ở xóm C, Tổ B, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang chơi. T ngồi chơi ở nhà bà L được khoảng 15 phút thì đi về. Khi T bắt đầu ngồi lên xe mô tô để đi về thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Vật chứng của vụ án gồm: Số tiền 147.000 đồng; 01 ví da mầu nâu; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistas Laizumbos mầu đen, màn hình bị vỡ; 01 xi lanh nhựa; 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định được nhập kho vật chứng để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 216/CT-VKS ngày 29 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo nhất trí và không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 06/10/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định và 01 xi lanh nhựa;

- Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn T;

- Trả lại bị cáo 01 ví da màu nâu, số tiền 147.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistas Laizumbos màu đen, màn hình bị vỡ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Tùng phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]- Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 20 phút ngày 06/10/2018 tại khu vực bờ đê xóm Cầu Tre, Tổ 1, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, Công an thành phố B bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,046 gam chất ma túy Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh và điểm, khoản, Điều trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]- Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ xã hội, làm sói mòn đạo đức và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Đảng và Nhà nước đang quyết tâm loại trừ tệ nạn này, nhưng chỉ vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo đã cố ý phạm tội. Do đó, cần xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự.

[4]- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5]- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6]- Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng không lấy đó làm bài học, tu dưỡng, rèn luyện nay lại phạm tội do cố ý. Do vậy, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục bị cáo, phòng ngừa tội phạm cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo.

[7]- Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có điều kiện kinh tế để nộp phạt nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]- Đối với người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn T, do Tùng khai mua của một người không quen biết nên không đủ căn cứ xác minh xử lý. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[9]- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Super Dream II mầu nâu, số máy JA27E- 0013129, số khung RLHJA2703DY013254 là phương tiện mà Tùng dùng để đi mua ma túy ngày 06/10/2018. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên có biển kiểm soát đúng là 12H1- 098.67, chủ xe là chị Vi Thị K, sinh năm 1989 ở thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; chiếc xe mô tô trên là vật chứng của vụ việc có dấu hiệu của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” xảy ra trên địa bàn huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 02/11/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bàn giao chiếc xe mô tô trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Lạng Sơn để giải quyết theo thẩm quyền.

[10]- Đối với chiếc biển kiểm soát 98F5- 8685 gắn trên xe mô tô nhãn hiệu Super Dream II mầu nâu, số máy JA27E- 0013129, số khung RLHJA2703DY013254 mà T dùng làm phương tiện đi mua ma túy ngày 06/10/2018. Qúa trình điều tra xác định chiếc biển kiểm soát trên là biển kiểm soát của xe mô tô nhãn hiệu Dream mầu nâu có số máy 0025601, số khung 025605, chủ xe là anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980 ở thôn C, xã T2, huyện L, tỉnh Bắc Giang; chiếc biển kiểm soát trên là vật chứng của vụ án “Trộm cắp tài sản” xảy ra trên địa bàn huyện L. Ngày 07/11/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bàn giao chiếc biển kiểm soát trên cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L để giải quyết theo thẩm quyền.

[11]- Về vật chứng của vụ án:

- 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 01 xi lanh nhựa là vật không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn T cần trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 147.000 đồng, 01 ví da mầu nâu và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistas Laizumbos mầu đen, màn hình bị vỡ không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[12]- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13]- Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/10/2018.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định và 01 xi lanh nhựa;

- Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn T;

- Trả lại bị cáo số tiền 147.000 đồng; 01 ví da mầu nâu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistas Laizumbos mầu đen, màn hình bị vỡ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về