Bản án 05/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 05/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2019/HSST ngày  31  tháng  01  năm  2019  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số 05/2019/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo: Lý Đức C. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 05/01/1967 tại Lào Cai.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/10; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lý Đức L (đã chết) và bà Phạm Thị L; vợ: Triệu Thị T (đã ly hôn); có 01 con.

Tiền sự: Không; tiền án: 01. Bản án số 32/2010/HSST ngày 29/9/2010 của Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị bắt giam, giữ từ ngày 24/5/2018 cho đến nay - có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị Y, trú tại thôn N, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn - có mặt; Hoàng Văn H (đồng thời là người làm chứng trong vụ án) trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Bắc Kạn - vắng mặt.

* Người làm chứng: La Hoàng Đ; Nông Văn H đều trú tại thôn N, xã N, huyện B, tỉnh Bắc Kạn - đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Hồi 10.30ph ngày 24/5/2018 Công an huyện B nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại thôn N, xã Q, huyện B có một đối tượng nam giới mặc quần soóc ngắn màu nâu vàng, áo sơ mi ngắn tay có biểu hiện tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý. Tổ công tác Công an huyện B tiến hành kiểm tra, xác minh phát hiện một đối tượng như tin báo, tổ công tác yêu cầu xuất trình giấy tờ tuỳ thân để kiểm tra thì đối tượng có hành động dùng tay trái vứt xuống đất một số đồ vật, tài liệu tại khu vực bếp thuộc nhà của Lý Đức C rồi vùng bỏ chạy. Tổ công tác đã kịp thời khống chế, đối tượng trình bày họ tên là Lý Đức C - sinh năm 1967 trú tại thôn N, xã Q, huyện B. Tiến hành kiểm tra đồ vật, tài liệu mà Lý Đức C đã vứt xuống đất gồm: 02 tờ tiền pôlime mệnh giá 200.000đ; 01 gói nhỏ nilon màu trắng được buộc bằng dây cao su (loại dây nịt) màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục nghi là heroin. Tiến hành thử phản ứng phát hiện nhanh chất ma tuý; kết quả thử phản ứng trùng với đặc trưng phản ứng của chất ma tuý heroin, gói nhỏ trên được gói lại như lúc ban đầu, niêm phong trong phong bì ký hiệu “C1”, số tiền 400.000đ niêm phong trong phong bì ký hiệu “T - C”.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B tiến hành khám xét khẩn cấp đối với người, nơi ở và công trình phụ cận của Lý Đức C tại thôn N, xã Q, huyện B phát hiện thu giữ gồm: 01 ví giả da màu nâu tại túi quần sau bên phải Lý Đức C đang mặc bên trong có 01 CMND số 09528063 mang tên Lý Đức C, số tiền 6.987.000đ được niêm phong trong phong bì ký hiệu “T - C1”; tại bàn uống nước trong phòng khách 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen; tại đầu giường ngủ bên phải hướng của chính đi vào 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền đỏ trắng đều đã qua sử dụng; tại trong ngăn tủ bên phải chiếc tủ kê trong phòng khách 01 sổ hộ khẩu số 459 mang tên chủ hộ Lý Đức C; tại nóc tủ bên phải chiếc tủ kê trong phòng khách có 05 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng được cắt thành hình chữ nhật kích thước không xác định; 01 giấy phép lái xe mô tô số AK180413 mang tên Hoàng Văn H.

Tại biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu “C1” có khối lượng là 1,302g. Niêm phong toàn bộ số chất bột màu trắng trên trong phong bì ký hiệu “C2” để gửi giám định, giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “C1” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “C3”.

Tại kết luận giám định số 56/PC54 - MT ngày 31/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu “C2” gửi giám định là chất ma tuý, loại heroin có khối lượng là 1,302g (một phảy ba không hai gam).

Quá  trình  giải  quyết  vụ  án  Lý  Đức  C  khai:  Khoảng  10h.00  ngày22/5/2018 C một mình đi xe khách đến khu vực bến xe Thái Nguyên cũ, tìm và mua với một người đàn ông khoảng 40 tuổi (C không biết tên, tuổi, địa chỉ) được 01 gói ma tuý với số tiền 1.500.000đ, sau đó mang về nhà chia thành nhiều gói nhỏ để sử dụng và bán cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể C đã bán trái phép ma tuý cho những người sau:

Lần 1: Khoảng 8h00 ngày 24/5/2018 C đang ở nhà thì Hoàng Văn H (sinh năm 1976 trú tại thôn P, xã H, huyện B đến nhà C hỏi mua ma tuý, do H không có tiền nên đã cắm với C 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Hoàng Văn H, C đồng ý và đưa cho H 01 gói ma tuý trị giá 100.000đ.

Lần 2: Khoảng 10.30ph ngày 24/5/2018 chiến đang ở nhà thì La Hoàng Đ và Nông Văn H cùng trú tại thôn N, xã N, huyện B đến nhà C, sau khi nói chuyện Đ hỏi mua ma tuý với C, Đ đưa cho C 400.000đ và được C đưa lại 03 gói ma tuý, quá trình mua bán ma tuý có Nông Văn H chứng kiến.

Tại bản cáo trạng số 06/CT - VKS - BT ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Lý Đức C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” qui định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251/BLHS.

* Điều luật có nội dung:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

q) Tái phạm nguy hiểm.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điểm, khoản, điều luật, tội danh như đã viện dẫn ở trên và đề nghị: Áp dụng Điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự

Xử phạt bị cáo Lý Đức C từ 8 - 9 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/5/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương không có tài sản gì, nên không áp dụng. Về án phí: Bị cáo không thuộc hộ nghèo, cận nghèo nên phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi vi phạm như cáo trạng đã nêu, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Về xử lý vật chứng, án phí bị cáo thi hành theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến

hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà xác định: Do bản thân mắc nghiện chất ma tuý nên bị cáo Lý Đức C đã tìm mua ma tuý về sử dụng và bán cho những người nghiện khác để kiếm lời. Ngày 24/5/2018 C đã 02 lần bán trái phép chất ma tuý cho Hoàng Văn H và La Hoàng Đ, trong đó lần bán cho H do không có tiền nên H đã cắm bằng giấy phép lái xe để lấy gói ma tuý trị giá 100.000đ. Tổng số tiền thu lời bất chính là 400.000đ.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bản thân bị cáo C năm 2010 bị xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” năm 2015 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống, năm 2018 tiếp tục có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm b, q khoản 2 Điều 251/BLHS thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Lý Đức C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là có căn cứ pháp luật.

Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cần được xử lý nghiêm bằng hình phạt pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án về tội liên quan đến ma tuý; không có tình tiết tăng nặng; được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Tự thú”, “Thành khẩn khai báo…” qui định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51/BLHS. Ngoài ra gia đình bị cáo có công với nước, có cha đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51./BLHS.

[4]. Trong vụ án có Hoàng Văn H, La Hoàng Đ mua ma tuý với bị cáo để sử dụng, Nông Văn H đi cùng và được Đ cho sử dụng ma tuý cùng, hành vi của những người này chưa đủ yếu tố xử lý hình sự, Cơ quan điều tra đã xử lý bằng biện pháp khác. Người đàn ông bán ma tuý cho bị cáo C, do không biết tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xác minh.

[5]. Vật chứng: - 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T56” do cơ quan giám định hoàn trả; 01 phong bì niêm phong ký hiệu “C3”; 05 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng được cắt thành hình chữ nhật, kích thước không xác định - tất cả không có giá trị sử dụng, tịch thu tiêu huỷ.

- 01 giấy phép lái xe mô tô số AK 180413 mang tên Hoàng Văn H do H cắm với bị cáo Lý Đức C để mua ma tuý - trả lại cho Hoàng Văn H.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Massel màu đen viền đỏ trắng đều qua sử dụng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội; 01 ví giả da màu nâu; 01 chứng minh nhân dân số 09528063 mang tên Lý Đức C; 01 sổ hộ khẩu số 459 tên chủ hộ Lý Đức C - tất cả trả lại cho bị cáo.

- Số tiền 400.000đ do bị cáo bán ma tuý mà có - tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Trong  khi  tiến  hành  khám  xét,  Cơ  quan  điều  tra  tạm  giữ  số  tiền 6.987.000đ, quá trình điều tra làm rõ là tiền của chị Hoàng Thị Y gửi Lý Đức C đi trả nợ giúp, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Chị Y yêu cầu được trả lại số tiền trên, xét thấy cần chấp nhận.

[6]. Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định ổn định, xác minh tại địa phương không có tài sản riêng, xét không có khả năng thi hành án nên không áp dụng.

[7]. Án phí: Bị cáo không thuộc hộ nghèo, cận nghèo…nên phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lý Đức C phạm tội: Mua bán trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51/BLHS

 Xử  p hạt  : Bị cáo Lý Đức C 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/5/2018.

* Vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS

- Tịch thu tiêu huỷ số không có giá trị sử dụng gồm: 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T56”; 01 phong bì niêm phong ký hiệu “C3”; 05 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng cắt thành hình chữ nhật, kích thước không xác định.

- Trả lại bị cáo Lý Đức C 01 ví giả da màu nâu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền đỏ trắng đều đã qua sử dụng; 01 chứng minh nhân dân số 09528063 tên Lý Đức C; 01 sổ hộ khẩu số 459 tên chủ hộ Lý Đức C.

- Trả lại Hoàng Văn H trú tại thôn P, xã H, huyện B, tỉnh Bắc Kạn 01 giấy phép lái xe mô tô số AK180413 mang tên Hoàng Văn H (Tất cả vật chứng, tài sản số lượng, tình trạng theo biên bản giao nhận giữa Công an - Chi cục thi hành án dân sự huyện B).

- Số tiền 7.387.000đ (bảy triệu ba trăm tám mươi bảy nghìn đồng), trong đó: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng); trả lại chị Hoàng Thị Y trú tại thôn N, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn 6.987.000đ (sáu triệu chín trăm tám mươi bảy nghìn đồng). Số tiền trên gửi tại Kho bạc Nhà nước B - số lượng, tình trạng theo biên bản giao nhận tài sản giữ hộ giữa Kho bạc - Công an huyện B.

* Án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Lý Đức C chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự; người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về