Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ LY HÔN,TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 480/2018/TLST - HNGĐ, ngày 03 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2019 và Thông báo mở lại phiên toà số 06/2019/TB - XX ngày 13 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thuý H, sinh năm 1978. Nơi ĐKHKTT: Tổ 22, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở hiện nay: Tổ 11, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức H1, sinh năm 1974. Nơi ĐKHKTT: Tổ 22, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2018, bản tự khai và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Vũ Thị Thuý H trình bày:

Chị Vũ Thị Thuý H và anh Nguyễn Đức H1 đăng ký kết hôn với nhau ngày 31/12/2004 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H1 ham chơi, cờ bạc, rượu chè... dẫn đến việc nợ nần, chị cùng bố mẹ nhiều lần phải đứng ra trả nợ cho anh với số tiền lớn. Mặc dù được khuyên nhủ, nhưng anh H1 vẫn không thay đổi. Đến nay anh H1 lâm vào tình trạng nợ lần, không còn khả năng thanh toán, bị chủ nợ đến đòi tiền và đe dọa, nên đã bỏ nhà đi, không biết đi đâu. Chị mang theo hai con về ở cùng với bố mẹ đẻ, tại tổ 11, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Hiện tại, chị Vũ Thị Thuý H xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Đức H1.

* Về con chung: Chị H và anh H1 có 02 con chung là cháu Nguyễn Vũ H2, sinh ngày 19/4/2006 và cháu Nguyễn Vũ Gia A, sinh ngày 13/02/2011. Nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu H2 và cháu A cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung.

* Về chia tài sản, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Đức H1 vắng mặt. Từ khi thụ lý vụ án cho đến ngày xét xử sơ thẩm, mặc dù Tòa án đã tiến hành triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H1, nhưng anh H1 cố tình lẩn tránh, vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc tại Tòa án mà không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị Thuý H có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết quyền nuôi con với anh Nguyễn Đức H1, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Anh Nguyễn Đức H1 có hộ khẩu thường trú tại Tổ 22, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái. Căn cứ khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái.

Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Đức H1 vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản  3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Thuý H và anh Nguyễn Đức H1 được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 31/12/2004 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh H1 ham chơi, rượu chè, cờ bạc dẫn đến nợ nần, mất khả năng thanh toán. Chị H cùng gia đình nhiều lần khuyên nhủ và trả nợ thay cho anh với số tiền lớn nhưng anh H1 vẫn không thay đổi. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh H1 đến để hòa giải, nhưng anh H1 không đến, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Xét mâu thuẫn vợ chồng của chị H và anh H1 đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó yêu cầu xin ly hôn của Chị H là có căn cứ, được HĐXX chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị H, anh H1 có 02 con chung là cháu Nguyễn Vũ H2, sinh ngày 19/4/2006 và cháu Nguyễn Vũ Gia A, sinh ngày 13/02/2011. Hiện tại, cả hai cháu đang ở cùng với chị H. Quá trình giải quyết vụ án, cả cháu H2 và cháu A đều có đơn đề nghị, nguyện vọng muốn ở với chị H. Anh H1 cũng không có ý kiến phản đối hoặc thể hiện mong muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H2 và cháu A. Do đó, cần giao cháu H2 và cháu A cho chị Vũ Thị Thuý H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định của pháp luật và hoàn cảnh thực tế của các đương sự.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[5] Về chia tài sản, nợ chung: Chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Vũ Thị Thuý H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

 [7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Khoản 1 Điều 56; Các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Thuý H được ly hôn với anh Nguyễn Đức H1.

2. Về nuôi con: Giao các cháu Nguyễn Vũ H2, sinh ngày 19/4/2006 và cháu Nguyễn Vũ Gia A, sinh ngày 13/02/2011 cho chị Vũ Thị Thuý H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu H2 và cháu A đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Đức H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Thuý H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số AA/2017/0002022 ngày 03/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái. Xác nhận Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, chị Vũ Thị Thuý H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Đức H1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về