Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 381/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2018/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tạ Thị Thanh Đ, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Khu phố 1, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trọng H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 2, tổ 5, thôn A, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/7/2018, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa nguyên đơn bà Tạ Thị Thanh Đ trình bày: Bà và ông Nguyễn Trọng H kết hôn năm 2010 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ vào ngày 12/10/2010. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có thời gian tìm hiểu trong thời gian 06 tháng. Quá trình vợ chồng chung sống trong thời gian 03 tháng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống; ông Nguyễn Trọng H không có sự quan tâm, chăm sóc và không có trách nhiệm với bà nên cuộc sống chung không hòa hợp và không có hạnh phúc. Bà và ông H đã ly thân từ năm 2011 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng đều không có thiện chí hòa giải, tự lo cuộc sống riêng và không còn sự quan tâm, trách nhiệm với nhau. Nay bà Tạ Thị Thanh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không có khả năng hòa giải đoàn tụ nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Trọng H.

Về con chung: không có

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Tạ Thị Thanh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai ngày 20/9/2018, bị đơn ông Nguyễn Trọng H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Tạ Thị Thanh Đ kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới hỏi. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn lớn, ông vẫn chăm sóc và yêu thương vợ tuy nhiên bà Đ không có trách nhiệm đối với gia đình, đến tháng 01 năm 2011 bà Đ bỏ về nhà cha mẹ tại N để sinh sống. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, ông có liên hệ với gia đình bà Đ để hỏi nguyên nhân nhưng gia đình bà Đ không trả lời và có thái độ, lời nói khó nghe nên vợ chồng không còn liên lạc, không quan tâm và không có trách nhiệm đối với nhau. Hiện nay ông H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Tạ Thị Thanh Đ có yêu cầu ly hôn ông đồng lý ly hôn với bà Tạ Thị Thanh Đ.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông H không yêu cầu.

Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Nguyễn Trọng H vắng mặt không có lý do, vì vậy Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt ông H và thông báo kết quả phiên họp cho ông H được biết; do ông H vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Trọng H có yêu cầu bà Tạ Thị Thanh Đ trả 03 chỉ vàng 24k và bà Đoàn Thị C (mẹ ông H) có yêu cầu bà Tạ Thị Thanh Đ trả số tiền 30.000.000đ và 3,5 chỉ vàng nhưng không đến tòa nên không xem xét, giải quyết trong vụ án. Trong trường hợp, ông Nguyễn Trọng H và bà Đoàn Thị C có tranh chấp về tài sản đối với bà Tạ Thị Thanh Đ có quyền yêu cầu khởi kiện vụ án khác.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng:

Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán chấp hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; xác định đúng quan hệ tranh chấp, đúng người tham gia tố tụng, tống đạt các giấy tờ cho đương sự đúng theo quy định; vụ án được giải quyết đúng thời hạn quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tạ Thị Thanh Đ về việc ly hôn ông Nguyễn Trọng H; về con chung không có và tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xác định đây là vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn bà Tạ Thị Thanh Đvà bị đơn ông Nguyễn Trọng H theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Trọng H đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án, không thuộc trường hợp bất khả kháng nhằm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông Nguyễn Trọng H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Tạ Thị Thanh Đ và ông Nguyễn Trọng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, có tổ chức lễ cưới theo phong tục. Quá trình ông bà chung sống phát sinh mâu thuẫn trầm trọng từ năm 2011, nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn, bị đơn trình bày do vợ chồng không có trách nhiệm đối với gia đình dẫn đến cuộc sốngchung không có sự hòa hợp, vợ chồng đã tự chấm dứt cuộc sống chung từ năm 2011 cho đến nay. Xét thấy hôn nhân giữa bà Tạ Thị Thanh Đ và ông Nguyễn Trọng H mâu thuẫn trầm trọng; đời sống chung đã chấm dứt, giữa vợ chồng không còn sự quan tâm, trách nhiện đối với nhau; mục đích hôn nhân không đạt được; ông Nguyễn Trọng H đồng ý yêu cầu ly hôn của bà Tạ Thị Thanh Đ nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Tạ Thị Thanh Đ được ly hôn ông Nguyễn Trọng H.

[3] Về con chung: Ông bà không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông bà không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Tạ Thị Thanh Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 51; 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 147, 220, 227, 228, 264, 266, 267 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Cho ly hôn giữa bà Tạ Thị Thanh Đ và ông Nguyễn Trọng H.

2. Về án phí:

Buộc bà Tạ Thị Thanh Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo phiếu thu số AA/2016/0006050 ngày 09/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng. Bà Tạ Thị Thanh Đ đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 25/01/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về