Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXX-ST ngày 07 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Đ - Sinh năm 1986

Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá, Chỗ ở: Thôn G, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Hoàng Viết H - Sinh năm 1979

Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên toà có mặt chị Đ, vắng mặt anh H không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 19/02/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Đặng Thị Đ trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Hoàng Viết H tự nguyện tìm hiểu, kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 22/3/2005. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 02/2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H rượu chè chơi bời cờ bạc, dẫn đến nợ nần nhiều. Do đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Quá trình sống xảy ra mâu thuẫn cãi vã vợ chồng chị đã được UBND xã H hoà giải nên vợ chồng chị quay về đoàn tụ. Sau khi đoàn tụ được một thời gian ngắn thì anh H vẫn tiếp tục chơi cờ bạc, rượu chè nên vợ chồng chị tiếp tục cãi vã nhau, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng. Tháng 12/2018 âm lịch anh H đi chơi cờ bạc về bắt chị đưa tiền để đi trả nợ nhưng chị không đồng ý, nên anh H đã dùng dây thắt lưng đánh vào trán chị làm chị bị chảy máu và phải đi trạm xá điều trị. Từ tháng 12/2018 đến nay chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau và không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Hoàng Viết T, sinh ngày 22/11/2005 và Hoàng Thị Th, sinh ngày 23/08/2008. Hiện nay các cháu khoẻ mạnh bình thường và đang ở với anh H.

 Nếu vợ chồng ly hôn nguyện vọng của chị là xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Th, anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Về cấp dưỡng nuôi con do mỗi người nuôi một cháu nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con và chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, quá trình hoà giải anh Hoàng Viết H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Đặng Thị Đ kết hôn tự nguyện và được Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2005. Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh thường xuyên đi chơi uống rượu chè và thỉnh thoảng có chơi đánh bạc nên vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau, sau mỗi lần cải nhau thì cô Đ lại bỏ về nhà bố mẹ đẻ, mâu thuẫn vợ chồng cũng được UBND xã H hòa giải. Tháng 12/2018 anh đi uống rượu và đánh bạc, do về muộn nên vợ chồng lại cải nhau, do tức giận không làm chủ được bản thân nên anh lấy dây thắt lưng quất vào trán cô Đ dẫn đến chảy máu và anh chở ra trạm xá điều trị, đến trưa hôm sau cô Đ bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay, từ đó vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Nay cô Đ làm đơn xin ly hôn, anh không đồng ý do anh đang còn tình cảm với cô Đ và cả 02 cháu đang còn nhỏ nên cần sự quan tâm chăm sóc của cả bố lẫn mẹ. Còn nếu chị Đ vẫn kiên quyết đòi ly hôn thì anh cũng đồng ý.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Hoàng Viết T, sinh ngày 22/11/2005 và Hoàng Thị Th, sinh ngày 23/08/2008. Hiện nay các cháu khoẻ mạnh bình thường và đang ở với anh.

Nếu vợ chồng ly hôn nguyện vọng của anh là đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu T và Th. Không đề nghị chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay chị Đ giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Hoàng Viết H không có mặt tại phiên tòa, Tòa án đã T hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên tòa cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Đ và anh Hoàng Viết H kết hôn với nhau năm 2005 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Theo ý kiến của chị Đ, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do anh H thường xuyên rượu chè, cờ bạc, chửi bới và đánh đập chị. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2018 đến nay và sống ly thân không quan tâm đến nhau. Đối với anh H mong muốn vợ chồng quay về đoàn tụ vì tình cảm vợ chồng vẫn còn.

Xét thấy: Anh H mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nhưng qua lời khai của anh và chị Đ đều thể hiện mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ việc anh ham chơi, cờ bạc và hay uống rượu say dẫn đến cải nhau đánh nhau phải đi trạm xá điều trị và mâu thuẫn vợ chồng cũng được UBND xã H hòa giải nhưng không có kết quả, cả anh và chị đều khai thống nhất vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2018 cho đến nay không quan tâm đến nhau, hơn nữa các con của anh chị đều khai bố mẹ hay cải và đánh nhau, ngoài ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh H cũng không đưa ra được phương án để vợ chồng đoàn tụ. Đến nay chị Đ vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được và không còn quan hệ gì về tình cảm. Anh H cũng thống nhất nếu chị Đ cương quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị Đ đã thực sự không còn tình cảm với anh H và anh H cũng bỏ mặc việc giải quyết vụ án khi Tòa án đưa ra xét xử. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đ và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Đ được ly hôn anh H là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng thống nhất có 02 con chung là: Hoàng Viết T, sinh ngày 22/11/2005; Hoàng Thị Th, sinh ngày 23/08/2008.

Nguyện vọng của chị Đ là xin được nuôi cháu Th, giao cháu T cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con do cả hai đều nuôi con nên không bên nào phải cấp dưỡng và chị không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng.

Nguyện vọng của anh H: Nếu vợ chồng ly hôn, anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 cháu, không đề nghị chị Đ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của anh, chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Hội đồng xét xử thấy rằng cả 02 cháu hiện đã lớn, đang đi học nên việc giao cả 02 cháu cho một người nuôi dưỡng sẽ rất khó khăn và không đảm bảo cho sự phát triển cũng như sinh hoạt của các cháu.

Ngoài ra cả anh và chị đều khoẻ mạnh, có việc làm, có thu nhập, nên cần giao mỗi người nuôi 01 cháu là phù hợp. Hiện nay cháu T lớn hơn và là con trai nên cần giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Th nhỏ hơn và là con gái nên cần giao cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng sẽ tốt và đảm bảo hơn về tâm sinh lý của các cháu. Ngoài ra nguyện vọng của cháu T là muốn được ở với bố, cháu Th muốn được ở với mẹ. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HNGĐ giao cháu Th cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với lợi ích của các cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do mỗi người nuôi một cháu, anh chị đều có việc làm và có thu nhập đủ sinh hoạt nuôi con. Nên Hội đồng xét xử không buộc các bên phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Đặng Thị Đ là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị Đ phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Đặng Thị Đ và anh Hoàng Viết H.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 02 con chung là: Hoàng Viết T - Sinh ngày 22 tháng 11 năm 2005;

Hoàng Thị Th - Sinh ngày 23 tháng 8 năm 2008.

2.1. Giao con chung Hoàng Thị Th, sinh ngày 23 tháng 8 năm 2008 cho chị Đặng Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Giao con chung Hoàng Viết T, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2005 cho anh Hoàng Viết H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.3. Chị Đ, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

2.3. Chị Đ, anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị Đ, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đặng Thị Đ phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000424 ngày 01/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị Đ đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy Đ tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy Đ tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Đ và anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với chị Đ kể từ ngày tuyên án, đối với H kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 23/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về