Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 21/02/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 02 năm 2019 tại hội trường, Toà án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 517/2018/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 31 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Số nhà 20, đường T, phường G, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. Hiện ĐKHK: Tổ 14, phường ĐQ, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)

Bị đơn: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Tổ 17, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên toà nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Chị và anh Nguyễn Quang T kết hôn năm 2006, đăng ký kết tại ủy ban nhân dân phường ĐQ, thành phố TN, trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc gì. Được hai bên gia đình đồng ý tổ chức cưới hỏi theo phong tục truyền thống. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình anh T tại tổ 17, phường T, thành phố TN.

Hai vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 7 năm.

Lý do chị đề nghị ly hôn là do vợ chồng chung sống không hòa hợp, không có sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống dẫn đến không còn tình cảm, hạnh phúc. Hiện anh chị đã sống ly thân hai được khoảng năm nay, trong thời gian sống ly thân anh T cũng không quan tâm đến chị và con. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị được ly hôn với anh T.

Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 27/10/2006, chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mức 3.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Hai vợ chồng không có tài sản chung, không có khoản nợ chung nào. Vì vậy chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị T nhận nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong bản tự khai, biên bản lấy lời khai, tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, anh Nguyễn Quang T khai: Anh và chị T kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc gì.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng anh T xác định: Quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng như chị T khai là không đúng, chị T có mối quan hệ ngoài hôn nhân khi đang chung sống cùng anh từ năm 2015 chứ không phải hai vợ chồng có mâu thuẫn gì khác. Khi chị T tự ý bỏ nhà ra đi nhà nội vẫn quan T đến con chung của anh chị. Đến giai đoạn hiện nay còn nhiều việc chị T làm ảnh hưởng đến gia đình anh nên anh xác định hôn nhân vợ chồng đã đổ vỡ, quá trình vợ chồng ly thân không ai còn quan T đến ai, anh liên lạc với chị T cũng chỉ vì con nhưng anh không nhất trí ly hôn vì chị T chưa nói đúng về nguyên nhân dẫn đến ly hôn của hai vợ chồng và vì muốn cho con có một gia đình đầy đủ.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 27/10/2006. Khi ly hôn anh tôn trọng nguyện vọng của con nên cũng nhất trí thỏa thuận để chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Anh nhất trí cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mức 3.000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung và cũng không có khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án nên phải đưa vụ án ra xét xử công khai.

Kết thúc phần hỏi, vị đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố TN phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định đúng thẩm quyền và quan hệ tranh chấp; Thực hiện các hoạt động tố tụng và thời hạn mở phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa xét xử sơ thẩm.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Chấp hành đúng quyền, nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; áp dụng Luật phí và lệ phí quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Đề nghị: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh T, cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Quang T. Về con chung công nhận sự thỏa thuận của chị T, anh T, con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 27/10/2006 do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mức 3000.000 đồng/ tháng; Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung. Về án phí chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tạ phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Nguyễn Quang T kết hôn với nhau vào năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết tại Ủy ban nhân dân phường ĐQ, thành phố TN nên được pháp luật thừa nhận là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân dẫn đến vợ chồng ly hôn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống dẫn đến không còn tình cảm. Trên thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay không ai còn quan tâm đến ai. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh T là phù hợp với thực tế và quy định tại các Điều 51, Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị T, anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương A, chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung, đồng thời cháu Nguyễn Ngọc Phương A cũng có nguyện vọng được ở với chị T. Tại phiên tòa anh T nhất trí thỏa thuận con chung sẽ do chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác là phù hợp với thực tế và Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “ 1. Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của luật này, bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng: Tại phiên tòa anh T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mức 3000.000 đồng/ tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh T xác định không có tài sản chung, không có nợ chung và đều không đề nghị Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí: Chị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm. Anh T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

[4] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh T, cho chị T được ly hôn với anh Nguyễn Quang T.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Con chung là Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 27/10/2006 sẽ do chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Quang T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

* Về nghĩa vụ cấp dƣỡng nuôi con: Anh Nguyễn Quang T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T mức 3.000.000đ (Ba triệu đồng)/ tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con kể từ tháng 02/2019 cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì phải chịu lãi suất trên số tiền chậm thi hành cho đến khi thi hành xong. Theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Án phí: Chị T phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006415 ngày 04/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

Anh T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con vào ngân sách nhà nước.

Chị T, anh T có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 21/02/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về