Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 221/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXX-ST ngày 13 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1969.

Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn Q, xã Tr, huyện X, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đào Văn L, sinh năm 1969.

Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn Q, xã Tr, huyện X, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt. bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình

Chị với anh Đào Văn L kết hôn với nhau từ tháng 9 năm 1991 là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Sau một thời gian chung sống đến năm 2008 vợ chồng bộc lộ sự không hòa hợp về tính cách, đặc biệt là bất đồng trong cuộc sống, trong sinh hoạt gia đình, trong công việc, trong làm ăn kinh tế mỗi người một chí hướng, không tìm được tiếng nói chung, không có sự tôn trọng lẫn nhau và nghi ngờ nhau không chung thủy, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra to tiếng cãi vã, xúc phạm nhau thậm chí nhiều lần còn xảy ra xô xát nhau. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, năm 2015 vợ chồng tự sống ly thân không còn quan hệ tình cảm. Đến tháng 9 năm 2018 chị đã làm đơn ly hôn anh L ra Tòa nhưng vì thương con nên chị đã rút đơn ly hôn. Tuy nhiên, từ đó vợ chồng không thể về đoàn tụ do từ hai phía không ai có ý thức hóa giải mâu thuẫn hàn gắn tình cảm, vì vậy vợ chồng vẫn tiếp tục sống ly thân đến nay không còn quan tâm cuộc sống của nhau.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, thời gian ly thân đã quá lâu, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức... nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Đào Đức H, sinh ngày 09/3/1992 và Đào Đức Th, sinh ngày 22/01/2000 đều đã thành niên nên chị không đề nghị Tòa giải quyết.

Về tài sản chung vợ chồng: Chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Không có nên chị không yêu cầu Tòa giải quyết

Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai ngày 22/01/2019, phía bị đơn anh Đào Văn Long trình bày:

Anh với chị Phạm Thị H kết hôn với nhau từ năm 1991 là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp tính, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, phần khác nghi ngờ nhau không chung thủy từ đó vợ chồng thường xuyên to tiếng cãi vã và xô sát nhau nên vợ chồng đã tự sống ly thân nhau.

Trước yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Hà, anh có quan điểm: Mặc dù xác nhận tình cảm vợ chồng không còn nhưng muốn vợ chồng về đoàn tụ vì sợ nếu ly hôn sẽ mang tiếng xấu; trường hợp chị H cương quyết ly hôn thì anh đồng ý ly hôn chị Hà để giải thoát cho nhau.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Đào Đức H, sinh ngày09/3/1992 và Đào Đức Th, sinh ngày 22/01/2000 đều đã thành niên nên anh không đề nghị Tòa giải quyết.

Về tài sản chung vợ chồng: Anh không đề nghị Tòa giải quyết.

Về công nợ chung vợ chồng: Không có nên anh không đề nghị Tòa giải quyết.

Đại diện VKSND tham gia phiên toà xác định:

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng cứ, chấp hành đúng pháp luật tố tụng; đương sự vắng mặt đã được Tòa án tạo mọi điều kiện để thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự; đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên toà....

Do mâu thuẫn đã trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hà và áp dụng các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình xử: Cho chị Phạm Thị H đượcly hôn anh Đào Văn L; về con chung của chị H và anh L là Đào Đức H, sinh ngày 09/3/1992 và Đào Đức Th, sinh ngày 22/01/2000 đều đã thành niên và các bên không đề nghị Tòa xét nên không xét; tài sản chung các bên không đề nghị Tòa xét nên không xét; công nợ chung các bên khẳng định không có nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở lời trình bày của các bên đương sự và quan điểm của Đại diện VKSND, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ kiện Hôn nhân và gia đình tranh chấp về ly hôn theo quy định tạiKhoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do bị đơn có địa chỉ cư trú tại thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên nên TAND huyện Phú Xuyên thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn anh Đào Văn L: Quá trình tố tụng mặc dù đã nhiều lần được Tòa án triệu tập làm việc và triệu tập phiên tòa nhưng anh L vẫn vắng mặt nên việc xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị H và anh Đào Văn L là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội (Đăng ký kết hôn số 05, ngày 10/9/1991). Quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách không hòa hợp mỗi bên, vợ chồng không tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau, từ đó nảy sinh những xung đột nên vợ chồng đã tự sống ly thân nhau. Về phía anh Long đã nhiều lần được Tòa triệu tập làm việc, hòa giải và triệu tập phiên tòa nhưng đều không đến Tòa đã thể hiện thái độ bỏ mặc, không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh L đã đến mức trầm trọng bởi tình cảm vợ chồng thực sự không còn do hai bên đã chủ động sống ly thân nhau, đời sống vợ chồng không có cơ hội hàn gắn bởi từ hai phía đều không ai mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân là hạnh phúc gia đình vì thế không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa….Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của chị Hà về ly hôn anh Long là có căn cứ, nên áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho chị Hà ly hôn anh Long.

Về con chung: Chị H và anh L có 02 con chung là Đào Đức H, sinh ngày 09/3/1992 và Đào Đức Th, sinh ngày 22/01/2000. Do các con chung đã thành niên, các bên đều không đề nghị Tòa giải quyết nên không xét.

Về tài sản chung: Các bên đều không đề nghị Tòa xét nên Tòa không xét.

Về công nợ chung: Các bên đều khẳng định vợ chồng không có công nợ chung nên Tòa không xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quyđịnh tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Hvà bị đơn anh L có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Đào Văn L.

2. Về con chung: Con chung của chị Phạm Thị H, anh Đào Văn Lg là Đào Đức H, sinh ngày 09/3/1992 và Đào Đức Th, sinh ngày 22/01/2000 đều đã thành niên, sức khỏe phát triển bình thường, các bên đều không đề nghị Tòa xét nên không xét.

3. Về tài sản chung: Các bên đều không đề nghị xem xét nên không xét.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005244 ngày 24/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 15/03/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về