Bản án 05/2019/DS-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 05/2019/DS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2019/TLST-DS ngày 14/8/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2019/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2019. Giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1971 (Có mặt)

Địa chỉ: Khu 1, xã T, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1980 (Vắng mặt)

Chị Bùi Thị Thúy H, sinh năm 1984

(Chị H ủy quyền cho anh Q tham gia tố tụng)

Địa chỉ: Khu 3, xã T, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án chị TrầnThị N trình bày:

Ngày15/01/2013 chị cho vợ chồng anh Q chị H vay số tiền 350.000.000đ(ba trăm năm mươi triệu đồng), ngày 16/62013 chị tiếp tục cho anh Q chị H vay số tiền 360.000.000đ (ba trăm sáu mươi triệu đồng); ngày 01/12/2013 chị cho anh Q chị H vay tiếp 180.000.000đ. Mục đích để kinh doanh và phát triển trang trại.Tổng cộng chị cho Q chị H vay số tiền 890.000.000đ(tám trăm chín mươi triệu đồng).

Khi vay lãi suất thỏa thuận bằng lời nói theo lãi suất của Ngân hàng tại thời điểm của các khoản vay. Kể từ đó cho đến nay anh Q chị H chưa trả cho chị khoản gốc và lãi nào. Nay chị đề nghị tòa án buộc anh Q, chị H trả khoản gốc trên, lãi suất tính bằng lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 0,75%/ tháng.

Cụ thể chị yêu cầu anh Q chị H phải trả khoản lãi như sau:

+ Đối với khoản vay ngày 15/01/2013 số tiền 350.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là 6 năm 9 tháng 17 ngày: 350.000.000đ x 0,75% x 6 năm 9 tháng 16 ngày = 214.025.000đ.

+ Đối với khoản vay ngày 16/6/2013 số tiền 360.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là: 6 năm 4 tháng 15 ngày: 360.000.000đ x 0,75% x 6 năm 4 tháng 15 ngày = 206.550.000đ.

+ Khoản vay ngày 01/12/2013 số tiền 180.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là 5 năm 11 tháng : 180.000.000đ x 0,75% x 5 năm 11 tháng = 95.850.000đ .

Tổng ba khoản lãi là: 516.425.000đ.

Tổng cộng gốc và lãi là: 890.000.000đ + 516.425.000 đ= 1.406.425.000đ(một tỷ bốn trăm linh sáu triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Trong bản tự khai và biên bản hòa giải tại Tòa án anh Nguyễn Hồng Q trình bày:

Trong quá trình tòa án giải quyết, chị H là vợ ủy quyền cho anh Q tham gia tố tụng tại tòa án. Trong bản tự khai anh Q xác định có vay các khoản tiền như chị N trình bày, mục đích để phát triển trang trại. Tuy nhiên những khoản tiền này là vay lãi cao có khoản cộng gộp vào gốc, tuy nhiên anh không có tài liệu chứng minh. Ngày 09/10/2019 tòa án tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải anh Q nhất trí các khoản vay như chị N trình bày như trên, số tiền các lần vay tổng cộng là 890.000.000đ, lãi suất theo lãi suất của Ngân hàng tại thời điểm của các khoản vay. Kể từ đó cho đến nay anh chị chưa trả cho chị N khoản gốc và lãi nào. Nay chị N khởi kiện anh chị nhất trí trả khoản gốc trên cho chị N, lãi suất tính bằng lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước là 0,75%/ tháng như trên. Tòa án đã lập biên bản Hòa giải thành vào ngày 09/10/2019.

Tuy nhiên ngày 11/10/2019 anh Q, chị H có đơn đề nghị thay đổi việc Hòa giải thành do khi về anh thấy vợ chồng anh chỉ vay chị N 230.000.000đ một khoản 50.000.000đ một khoản 180.000.000đ, còn các giấy vay nợ đã ký là do gốc cộng vào lãi, không vay đến khoản 890.000.000đ trên, nay anh, chị chỉ nhất trí khoản 230.000.000đ với lãi suất 0,75%. Việc anh, chị H ký vào 03 giấy vay nợ khống là do tin tưởng chị N là anh em họ hàng; anh, chị thừa nhận chữ ký trong các giấy vay nợ là đúng là của vợ chồng anh. Anh đề nghị tòa án xem xét giải quyết đúng quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các đương sự cung cấp và được thẩm tra tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng: Chị H ủy quyền cho anh Q tham gia tố tụng tại tòa án, anh Q do bận công việc nên không đến tham gia phiên tòa được, anh có đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt anh. HĐXX căn cứ vào Khoản 1, Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt bị đơn.

2. Về áp dụng pháp luật: Theo quy định tại Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hợp đồng dân sự này được thực hiện trước ngày Bộ luật 2015 có hiệu lực pháp luật. Giao dịch vay nợ giữa chị N, anh Q chị H diễn ra vào năm 2013, thời điểm này bộ luật dân sự 2005 đang có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên giao dịch này đang thực hiện và có nội dung hình thức phù hợp với quy định của BLDS 2015, do đó HĐXX áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 2015 để giải quyết.

3. Về nội dung vụ án:

[1] Ngày 15/01/2013 chị cho anh Q chị H vay số tiền 350.000.000đ(ba trăm năm mươi triệu đồng), ngày 16/62013 chị tiếp tục cho anh Q chị H vay số tiền 360.000.000đ (ba trăm sáu mươi triệu đồng). Ngày 01/12/2013 chị cho anh Q chị H vay tiếp 180.000.000đ(một trăm tám mươi triệu đồng). Tổng cộng chị N cho Q chị H vay số tiền 890.000.000đ (tám trăm chín mươi triệu đồng). Khoản tiền trên anh Q chị H chưa trả cho chị khoản gốc và lãi, nay chị yêu cầu anh Q chị H phải trả cho chị 890.000.000đ gốc và lãi suất tính từ ngày vay đến ngày 31/10/2019 là ngày xét xử, chị N yêu cầu tính lãi 0,75%/ 1 tháng.

Anh Q chị H xác định vợ chồng anh chị có vay tiền chị N, tại buổi hòa giải ngày 09/10/2019 anh Q chị H thừa nhận số tiền vay như chị N trình bày là đúng, anh chị đã nhất trí trả số tiền gốc và lãi suất thỏa thuận bằng lời nói theo lãi suất Ngân hàng, nay hai bên thỏa thuận bằng mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 0,75%/ tháng. Tòa án đã lập biên bnar Hòa giải thành, tuy nhiên sau đó anh Q chị H đã thay đổi lời khai, không thừa nhận số tiền nợ gốc là 890.000.000đ mà chỉ thừa nhận nợ chị N số tiền 230.000.000đ. Anh Q chị H thừa nhận chữ ký trong giấy vay tiền là do mình ký ra, tuy nhiên anh Q chị H cho rằng mình đã ký khống vào giấy biên nhận tiền trên do tin tưởng.

HĐXX thấy rằng: Việc chị N, anh Q chị H thỏa thuận vay số tiền 890.000.000đ, giấy vay tiền bên vay là anh Q chị H có ký ghi rõ họ tên. Không thỏa thuận lãi suất, giấy vay tiền viết tay, không công chứng hay chứng thực, không ghi kỳ hạn trả nợ. Căn cứ vào Điều 463, 469 BLDS 2015 đây là một hợp đồng vay tài sản, loại hợp đồng vay không kỳ hạn, có lãi là một giao dịch đúng quy định pháp luật.

Hơn nữa trong bản tự khai, trong biên bản tiếp cận công khai chứng cứ, biên bản hòa giải, anh Q thừa nhận các khoản vay trên. Tòa án đã lập Biên bản Hòa giải thành ngày 09/10/2019 do các đương sự đã thỏa thuận được việc giải quyết vụ án. Nay chị N yêu cầu anh Q chị H trả 3 khoản nợ trên là hoàn toàn đúng , vì vậy cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị N buộc anh Q chị H phải trả khoản tiền gốc 890.000.000đ là phù hợp.

Việc anh Q trình bày vợ chồng anh chỉ vay chị N 230.000.000đ, còn các giấy vay nợ đã ký là do gốc cộng vào lãi, không vay đến khoản 890.000.000đ trên, nay anh, chị chỉ nhất trí khoản 230.000.000đ với lãi suất 0,75%. Việc anh, chị H ký vào 03 giấy vay nợ khống là do tin tưởng chị N là anh em họ hàng; anh, chị thừa nhận chữ ký trong các giấy vay nợ là đúng là của vợ chồng anh. HĐXX thấy rằng lời trình bày của anh Q và chị H không có cơ sở bởi lẽ, khi giao dịch anh và chị H đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, 03 giấy vay tiền đều thể hiện nội dung rõ ràng về số tiền cho vay của từng khoản, dưới mục người vay đều có chữ ký xác nhận của vợ chồng anh chị. Điều đó thể hiện ý chí của người vay và người cho vay là thỏa thuận bình đẳng. Anh Q khai là khoản vay này do lãi suất cao cộng gộp thành tiền gốc tuy nhiên cũng không đưa ra được căn cứ nào thể hiện vấn đề này. Do đó HĐXX không chấp nhận yêu cầu của anh Q chị H, buộc anh chị phải trả cho chị N khoản tiền 890.000.000đ.

[2] Về yêu cầu trả tiền lãi:

Trong giấy vay tiền không ghi mức lãi suất cụ thể, tuy nhiên chị N, anh Q chị H thừa nhận khoản vay này thỏa thuận tính lãi suất bằng lời nói theo lãi suất ngân hàng tại thời điểm vay. Hiện tại chị N, anh Q thống nhất lãi suất của các khoản vay là 0,75%/1 tháng, thời điểm tính lãi từ ngày vay đến ngày xét xử. Căn cứ Điều 468 BLDS 2015; Điểm a, Khoản 3, Điều 2 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của HĐTP TANDTC, hướng dẫn áp dụng một số quy định về của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, đây là mức lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật vì vậy HĐXX chấp nhận mức lãi suất này. Cụ thể số lãi như sau:

+ Đối với khoản vay ngày 15/01/2013 số tiền 350.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là 6 năm 9 tháng 16 ngày: 350.000.000đ x 0,75% x 6 năm 9 tháng 16 ngày = 214.025.000đ.

+ Đối với khoản vay ngày 16/6/2013 số tiền 360.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là: 6 năm 4 tháng 15 ngày: 360.000.000đ x 0,75% x 6 năm 4 tháng 15 ngày = 206.550.000đ.

+ Khoản vay ngày 01/12/2013 số tiền 180.000.000đ tính đến ngày 31/10/2019 là 5 năm 11 tháng : 180.000.000đ x 0,75% x 5 năm 11 tháng = 95.850.000đ .

Tổng ba khoản lãi là: 516.425.000đ.

Tổng cộng gốc và lãi là: 890.000.000đ + 516.425.000 đ= 1.406.425.000đ(một tỷ bốn trăm linh sáu triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).Buộc anh Q chị H phải trả cho chị N.

[3]Về án phí: Anh Q, chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho chị N.

[4]Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 4, Điều 147; Điều 273; Khoản 1, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng: Điều 357, Điều 463; Khoản 1, Điều 466; Điều 468, 469, Điều 688; Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trần Thị N.

2. Xử buộc anh Nguyễn Hồng Q, chị Bùi Thị Thúy H phải trả cho chị Trần Thị N số tiền gốc 890.000.000đ và số tiền lãi là 516.425.000đ.

Tổng cộng 1.406.425.000đ(một tỷ bốn trăm linh sáu triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật,người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thánh toán số tiền trên, thì phải trả lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy đinh tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Hồng Q, chị Bùi Thị Thúy H phải chịu 54.192.700đ (năm mươi tư triệu một trăm chín mươi hai nghìn bảy trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho chị Trần Thị N số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số AA/2017/0001605, ngày 14/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

4. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15ngày kể từ ngày tuyên án các Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ để xét xử phúc thẩm; Bị đơn sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã nơi cư trú lên TAND tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/DS-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:05/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về