TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 12/02/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2017/HSST ngày 25 tháng 12 năm 2017, quyết định đưa ra xét xử số 07/2017/HSST-QĐ ngày 01 tháng 02 năm 2018 đối với các bị cáo:
1/ Họ và tên: Khưu Văn Đ (tên gọi khác: Nết), sinh năm 1984 tại Bạc Liêu; nơi cư trú và ĐKTT: ấp NT, xã VH, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu; số CMND 385352427; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc:Kinh; con ông Khưu Văn M, sinh năm 1957 và bà Huỳnh Thị TH, sinh năm 1955; vợ Đỗ Thị Thùy L, sinh năm 1985; có 01 con sinh năm 2008; tiền sự: không; tiền án: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/8/2017 đến nay (có mặt).
2/ Họ và tên: Lê Văn N (tên gọi khác: Khanh), sinh năm 1980 tại Bạc Liêu; nơi cư trú và ĐKTT: ấp NT, xã VH, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu; số CMND 385332079; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc:Kinh; con ông Lê Văn K, sinh năm 1963 và bà Lâm Thu C, sinh năm 1961; có 01 con sinh năm 2001; tiền sự: không; tiền án: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/8/2017 đến nay (có mặt).
Người bị hại: anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1994
Địa chỉ: ấp HB I, xã MD, huyện HB, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Anh Lê Thống Nh, sinh năm 1974
Địa chỉ: ấp NT, xã VH, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu (có mặt);
2/ Anh Lê Việt Kh, sinh năm 1985
Địa chỉ: ấp NT, xã VH, huyện VL, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
Người làm chứng:
1/ Anh Trần Văn L, sinh năm 1986
Địa chỉ: ấp HB II, xã MD, huyện HB, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt);
2/ Anh Lê Văn Nh1, sinh năm 1991
Địa chỉ: ấp HB I, xã MD, huyện HB, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 ngày 03/11/2014, tại sân bóng nhà ông Lê Văn Lắ thuộc ấp HB II, xã MD, huyện HB, tỉnh Bạc Liêu diễn ra trận đá bóng giữa nhóm của Khưu Văn Đ, Lê Văn N, Nguyễn Văn H, Nguyễn Chí H, Trần Chí L1, Lê Quốc T, Huỳnh Quốc N1 với nhóm của Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn S, Lê Thanh Tr, Lê Văn Đ, Lê Văn Nh1, Nguyễn Văn L2, Cao Minh Ng, Trần Văn S1, Nguyễn Văn S2. Trong pha đá phạt góc thì S2 giơ tay trúng mặt Đ nên Đ đánh S2, 2 bên xong vào ẩu đã nhau. Đ chạy vào lấy những cây cơ bida quăng cho nhóm của mình nhưng được căn ngăn. Nhóm của G cũng chạy xuống gần bờ sông nhặt cây gổ nhưng cũng được mọi người can ngăn thì nhóm của Giàu bơi qua sông (phía nhà ông Trần Văn H). Khi qua đến bờ thì G, Sa và P chửi bới và thách thức nhóm của Đ, N. Tức giận, Đ và N xuống chẹt bơi qua sông. Khi Đ, N xuống chẹt xong thì Lê Thống Nh từ nhà vừa mới đến cũng xuống chẹt cùng qua sông. Khi gần đến bờ bên kia sông thì P chọi (ném) một đoạn tre dài khoảng 1m về phía N, Đ nhưng không trúng mà rơi trên chẹt. N nhặt đoạn tre đó, còn Đ lấy cây đố vuông dài khoảng 1,2m trên chẹt nhảy lên bờ. Đ chạy trước tiếp đến là N đuổi nhóm của G chạy lên cầu, còn Lê Thống Nh buột dây chẹt đi theo sau, lúc đó Lê Việt K nghe tin N, Đ đánh nhau với người khác nên bơi xuồng đến và cùng đi theo lên cầu. Đ, N đuổi nhóm của G đến giữa cầu, trong tư thế mặt đối mặt với nhau Đ dùng cây đố vuông đánh trúng vào vùng mặt của G làm G té xuống sông, lúc này G đã bị thương chảy máu ở vùng mặt. Khi G té xuống sông thì Đ và N dùng đất, cây củi chọi và G cũng chọi lại nhưng không có trúng ai. Khi lên đến cầu Nh thấy G chửi bới và dùng đất, cây chọi lên thì Nh cầm miếng ván chọi Gi nhưng không trúng. Tiếp đến, Lê Tấn N bơi chẹt đuổi theo G dưới sông nên G lội lên bờ. Lúc này thì ông Nguyễn Văn H (cha G) cùng với V, T đến để can ngăn. Thấy ông H đến, G nhổ cây hàng rào định đánh Đ, N thì N nhảy vào câu vật đánh với G, Đ giật cây của G giơ lên đánh G nhưng ông H nhảy vào can ngăn nên trúng vào vùng lưng quần bên phải ông H, ngoài ra ông H còn bị một thanh niên khác đánh nhưng chưa xác định được là ai. Sau đó, ông H và G được đưa đi bệnh viện điều trị. Ngày 19/11/2014 Nguyễn Văn G và Nguyễn Văn H có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với những người đã đánh mình vào ngày 03/11/2014.
Các bị cáo Đấu, Ngọc thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố là đúng vì chính các bị cáo là người dùng hung khí là cây gổ đuổi và đánh Nguyễn Văn G gây thương tích.
Các bị cáo yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo vì đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại 50.000.000 đồng, bị hại đã bải nại xin giảm nhẹ hình phạt và thuộc trường hợp phạm tội lần đầu.
Đối với bị cáo N có bà nội là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng 3.
Bị hại đã được gia đình bị cáo Đ và N bồi thường số tiền 50.000.000 đồng và đã có đơn bải nại và xin giảm án cho các bị cáo Đấu, Ngọc. Nay không yêu cầu bồi thường gì khác. Đồng thời, tại phiên tòa hôm nay bị hại xin cho các bị cáo được hưởng án treo.
Giấychứng nhận thương tích xác định Nguyễn Văn G có các thương tích; vết thương vùng chính mũi 03x03cm, 02x03cm, vết thương chân mày trái 2,5cm đã khâu. Kết luận pháp y số 01 ngày 11/12/2014 của Trung tâm pháp y tỉnh Bạc Liêu xác định thương tích Nguyễn Văn Giàu g: 01 sẹo cung mày trái 0,1%, 02 sẹo sống mũi, ảnh hưởng thẩm mỹ 11%. Tổng tỷ lệ 12%, vật gây thương tích do vật tầy.
Tại bản Cáo trạng số 02/QĐ-KSĐT ngày 25/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình đã truy tố các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình giữ quyền công tố và tranh luận: Bị cáo Khưu Văn Đ đã dùng cây gổ đố vuông và Lê Văn N dùng cây tre đã cùng nhau, rượt đuổi, đánh Nguyễn Văn G gây thương tích với tỷ lệ 12%. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù nên cần căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, Nghị quyết của Tòa án nhân dân tối cao để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình để bồi thường cho Nguyễn Văn G số tiền 50.000.000 đồng; bị hại có đơn bải nại và đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Riêng đối với bị cáo N có bà nội là bà Mai Thị L được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng 3. Vì vậy, đề nghị áp dụng: khoản 2Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46, 47 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009: Xử phạt bị cáo Khưu Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù; Áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46, 47 và 60 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009: Xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 9 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo;Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Đ, N đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn G 50.000.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu gì khác.Xử lý vật chứng: Các vật chứng giao cho Cơ quan điều tra quản lý để phục vụ cho việc điều tra các đối tượng gây thương tích cho ông Nguyễn Văn H.
Đối với thương tích ông Nguyễn Văn H, chưa đủ chứng cứ xác định người thực hiện hành vi gây ra thương tích, cơ quan điều tra đã tách vụ án tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau. Đối với hành vi của Lê Thống Nh, Lê Việt K và Lê Tấn Nh có liên quan đến hậu quả gây thương tích cho ông Nguyễn Văn Hết tiếp tục điều tra làm rõ.
Lời nói sau cùng, các bị cáo yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được hưởng án treo
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, các bị cáo xác định hành vi đánh người gây thương tích của các bị cáo là rõ ràng nên không yêu cầu Cơ quan tiến hành tố tụng phải cử Luật sư bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn điều tra cũng như Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử ghi nhận, việc vắng mặt của người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử nên xét xử vắng mặt họ.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định Của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Xuất phát từ việc mâu thuẫn nhau trong lúc đá bóng và sự khiêu khích, chửi bới thô tục của Nguyễn Văn G nên các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N đã có hành vi dùng cây gổ đố vuông và cây tre rượt đuổi, đánh Nguyễn Văn G gây thương tích. Theo kết luận pháp y số 01 ngày 11/12/2014 của Trung tâm pháp y tỉnh Bạc Liêu xác định thương tích Nguyễn Văn G gồm: 01 sẹo cung mày trái 0,1%, 02 sẹo sống mũi, ảnh hưởng thẩm mỹ 11%. Tổng tỷ lệ 12%, vật gây thương tích do vật tầy. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn xem thường pháp luật, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Đây là trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Do vậy, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo thì mới đủ để răn đe, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[4] Các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N thực hiện hành vi dùng cây đánh Nguyễn Văn G gây thương tích nhưng không có sự phân công vai trò cụ thể của từng người, không có sự bàn tính về cách thức phạm tội nên hành vi của các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này thì bị cáo Đ là người gây ra mẫu thuẩn với nhóm của G trước và chính Đ là người trực tiêp đánh trúng vào vùng mặt gây thương tích cho Nguyễn Văn G. Đối với Lê Văn N, tuy không phải là người gây thương tích chính cho Nguyễn Văn G nhưng đã thống nhất ý chí với bị cáo Đ bơi chẹt qua sông, cầm cây tre rượt đuổi đánh G và tiếp tục câu vật đánh bằng tay với G tại trước nhà ông H. Vì vậy, phải áp dụng hình phạt đối với Khưu Văn Đ nặng hơn Lê Văn N thì mới tương xứng với tính chất, vai trò của từng bị cáo gây ra.
[5] Khi quyết định hình phạt cho các bị cáo, Hội đồng xét xử đã xem xét các quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 của Quốc hội cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, Nghị quyết của Tòa án nhân dân tối cao để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đồng thời xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hốicải; tác động gia đình để bồi thường cho Nguyễn Văn G số tiền 50.000.000 đồng; bị hại có đơn bải nại và đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, phạm tội do lỗi một phần của bị hại theo quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Đối với Lê Văn N có bà nội là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng 3, từ nhỏ bị cáo N sống chung và được bà nội nuôi dưỡng nên được giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Như phân tích trên, bị cáo Đ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bản thân không có tiền án tiền sự, mới phạm tội lần đầu nên cần áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đối với bị N có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có đến 05 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, chỉ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện đối với bị cáo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì cũng đủ tính giáo dục và răng đe đối với bị cáo.
[6] Xử lý vật chứng: Các vật chứng giao cho cơ quan điều tra quản lý để phục vụ cho việc điều tra các đối tượng gây thương tích cho ông Nguyễn Văn H.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Đ, N đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn G 50.000.000 đồng. Bị hại không có yêu cầu gì khác.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[9] Đối với thương tích ông Nguyễn Văn H, chưa đủ chứng cứ xác định người thực hiện hành vi gây ra thương tích, cơ quan điều tra đã tách vụ án tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau. Đối với hành vi của Lê Thống N, Lê Việt K và Lê Tấn Nh1 có liên quan đến hậu quả gây thương tích cho ông Nguyễn Văn H tiếp tục điều tra làm rõ.
Như nhận định trên thì đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HòaBình tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ nên được chấp nhận hoàn toàn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N phạm tội “cố ý gây thương tích”.
2. Áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46, 47 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009: Xử phạt bị cáo Khưu Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 30/8/2017.
Áp dụng khoản 2 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 điều 46, 47, 60 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009: Xử phạt bị cáo Lê Văn N 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng, thời gian thử thách được tính kể từ ngày tuyên án.
3/ Áp dụng khoản 4 điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả tự do cho bị cáo Lê Văn N tại phiên tòa.
Giao bị cáo Lê Văn N cho UBND xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án dân sự
Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phíTòa án. Buộc các bị cáo Khưu Văn Đ, Lê Văn N mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bản án hình sự sơ thẩm các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 05/2018/HSST ngày 12/02/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 05/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về