Bản án 05/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 12/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 406/2017/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 406/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2018, đối với bị cáo:Họ tên: Đỗ Văn S - sinh năm 1969 tại thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 9/6 đường C, phường B, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn C và bà: Nguyễn Thị T; có vợ: Trần Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13- 11-2017, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 01-12-2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Nguyễn Đức L

Phan Xuân H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 13-11-2017, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ngõ 151 đường V, phường B, thành phố Đ phát hiện Đỗ Văn S đang bán trái phép chất ma túy cho Vũ Ngọc C, sinh năm 1963, trú tại: Số 3/151 đường V, phường B, thành phố Đ. Quá trình bắt giữ, tổ công tác đã thu giữ của C 01 gói nilong màu trắng bên trong là gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột dạng cục màu trắng (C khai là gói ma túy vừa mua của S với giá 200.000 đồng), thu giữ của S 200.000 đồng (S khai là tiền vừa bán ma túy cho Châu). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng rồi đưa S, C cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của S 01 chiếc xe máy BKS: 18B1-87612, thu giữ của C 01 điện thoại Nokia màu đen (đã cũ).

Khám xét khẩn cấp nơi của Đỗ Văn S, tổ công tác thu giữ của S 01 chiếc điện thoại Samsung màu đồng (đã cũ).

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 874/  ĐKTHS ngày 15-11-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng thu giữ là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có trọng lượng 0,006 gam (không phẩy không không sáu gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Đỗ Văn S khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như sau: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 13-11-2017, Vũ Ngọc C gọi điện thoại cho S hỏi mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng để sử dụng. S đồng ý bán và hẹn C khu vực đầu ngõ 151 đường V, phường B, thành phố Đ để giao dịch. Sau đó, S đi xe máy BKS: 18B1-87612 đến khu vực 3 tầng đường C, phường N, thành phố Đ mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 01 gói ma túy với giá 160.000 đồng. S cầm gói ma túy đi về chỗ hẹn đưa cho C. C nhận gói ma túy và trả cho S 200.000 đồng thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Nam Định phát hiện bắt giữ

Về nguồn gốc chiếc xe máy BKS: 18B1-87612 S khai là mượn của chị Đỗ Thị L, sinh năm 1966, trú tại: Thôn Đ, xã A, thành phố Đ (là chị gái của S). Chị L không biết việc S mượn xe máy để đi bán ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Đỗ Thị L.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Đỗ Văn S, tài liệu Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với Vũ Ngọc C, hành vi không đủ cấu thành tội phạm nên Công an thành phố Nam Định đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và trả lại cho C chiếc điện thoại Nokia màu đen đã thu giữ.

Bản cáo trạng số 06/QĐ-KSĐT ngày 29-12-2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Đỗ Văn S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Đỗ Văn S tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do đó Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Đỗ Văn S từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đỗ Văn S nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn S không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Văn S phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ ngày 13-11-2017, Đỗ Văn S đã có hành vi bán trái phép 0,006 gam Heroine với giá 200.000 đồng mục đích để kiếm lời tại khu vực ngõ 151 đường V, phường B, thành phố Đ thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi bán ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nên bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quyđịnh tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Đỗ Văn S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được hư  ng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt:

Xét bị cáo Đỗ Văn S phạm tội lần đầu; bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo mức khởi điểm của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua bán ma túy để kiếm lời nhưng xét thấy gia đình bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên HĐXX miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 200.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung qu  Nhà nước.

- 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung màu đồng (đã cũ) bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung qu  nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn S 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 13-11-2017.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

 Tịch thu sung qu  nhà nước số tiền 200.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Samsung (đã cũ).(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28-12-2017).

3. Án phí:

- Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Đỗ Văn S phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Đỗ Văn S được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 12/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về