Bản án 05/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo: Nguyễn Hữu N, sinh ngày 04 tháng 3 năm 1971; nơi sinh và cư trú: Thôn Y, xã YP, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị Y; có vợ: Nguyễn Thị M và 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết định số: 669/QĐ-CT ngày 22 tháng 4 năm 2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y. V/v đưa đối tượng nghiện ma túy vào Trung tâm cai nghiện đối với Nguyễn Hữu N với thời hạn 02 năm; ngày 22 tháng 4 năm 2010 N chấp hành xong quyết định. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14 tháng 12 năm 2017 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu N là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 14 tháng 12 năm 2017, N bắt xe Taxi đến khu vực sân vận động thị trấn Y, huyện Y mục đích mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, N tìm gặp một người phụ nữ khoảng 45 đến 50 tuổi, không rõ tên, địa chỉ mua được 02 gói ma túy (Heroine), với giá 1.000.000đ. Mua xong, N cầm 02 gói ma túy đi bộ đến đoạn đường Tỉnh lộ 303 thuộc khu 1, thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y thì bị Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng vụ án: Thu trong lòng bàn tay trái của N 02 gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu đen, bên trong chứa chất bột cục màu trắng (N khai đó là chất ma túy Heroine), được niêm phong có ký hiệu A1.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã gửi mẫu có ký hiệu A1 đi giám định. Tại Kết luận giám định số: 1530/KLGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng (trọng lượng) là 0,3871g (Không phảy ba tám bảy một gam, không kể bao bì), loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 06/KSĐT-MT ngày 18 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố bị cáo Nguyễn Hữu N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu N. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N từ  01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo, vì thu nhập không ổn định. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,1835gam mẫu và toàn bộ bao gói “MẪU TRẢ ”.

Bị cáo nói lời sau cùng: Biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật, hứa từ bỏ và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 18 giờ 25 phút ngày 14 tháng 12 năm 2017, tại đoạn đường Tỉnh lộ 303 thuộc khu 1, thôn Đ, thị trấn Y, huyện Y, Nguyễn Hữu N có hành vi nắm giữ trong lòng bàn tay trái 02 gói ma túy để chuẩn bị sử dụng, thì bị Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang. Vật chứng thu giữ 02 gói ma túy Heroine, có khối lượng (trọng lượng) là 0,3871g (Không phảy ba tám bảy một gam, không kể bao bì). Nguồn gốc 02 gói ma túy trên N khai do N mua của người phụ nữ khoảng 45 đến 50 tuổi, không rõ tên, địa chỉ tại khu vực sân vận động thị trấn Y, huyện Y.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Hữu N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội quy định một hình phạt nhẹ hơn, nên bị cáo bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy… thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01năm đến 05 năm:

a)………………………………………

………………………………………...

c) Hêrôin,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm lớn cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân bị cáo là xấu, năm 2008 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y ra quyết định đưa vào Trung tâm cai nghiện với thời hạn 02 năm. Lẽ ra, bị cáo phải xem đây là bài học kinh nghiệm để tu dưỡng, rèn luyện làm ăn lương thiện, nhưng bị cáo đã không làm được điều đó, vẫn nghiện chất ma túy nên dẫn đến phạm tội. Vì vậy, cần phải lên mức hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Song, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, nên cần được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[3] Về hình phạt bổ sung, theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập thấp, không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong vụ án này còn người phụ nữ bán ma túy cho Nguyễn Hữu N tại khu vực sân vận động thị trấn Y, huyện Y, nhưng quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ của người này. Vì vậy, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông lái xe Taxi chở Nguyễn Hữu N đến khu vực sân vận động thị trấn Y, huyện Y để mua ma túy, do N bắt xe ở ngang đường nên không biết tên, địa chỉ của người này và không nhớ của hãng Taxi nào, vì vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ.

[4] Về vật chứng: Sau khi giám định được hoàn trả đối tượng giám định còn lại gồm 0,1835gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu N phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 12 năm 2017.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu đối tượng còn lại sau giám định được hoàn lại, gồm 0,1835gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “MẪU TRẢ”, để tiêu hủy.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Hữu N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về