Bản án 05/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KÔNG CHRO - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 05/2018/DS-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 13/11/2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2018/TLST–DS, ngày 20/6/2018, về việc: “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐST-DS, ngày 16/10/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Hoài X, sinh năm 1975.

Đa chỉ: Tổ , thị trấn K, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai - có mặt.

- Bị đơn: Ông Tạ Văn B, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1976.

Đa chỉ: Tổ , thị trấn K, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện ngày 20/6/2018, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Phạm Thị Hoài X trình bày: Do quen biết nên ngày 20/3/2017, vợ chồng ông B, bà L có vay tôi số tiền 145.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), khi vay hai bên có thỏa thuận có tiền lãi nhưng không ghi trong giấy vay và hẹn đến ngày 10/4/2017 sẽ trả đủ cho tôi cả gốc và lãi. Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ tôi đã gặp vợ chồng ông B, bà L nhiều lần để đòi nợ nhưng vợ chồng ông B, bà L cứ hứa hẹn nhưng không trả cho tôi số tiền gốc và lãi như thỏa thuận.

Do đó tôi khởi kiện đề nghị giải quyết buoäc ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phaûi traû cho toâi soá tieàn gốc là 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và lãi phát sinh từ tháng 20/3/2017 đến tháng 5/2018 (thời điểm khởi kiện) là 14 tháng, cụ thể: 145.000.000 đồng, tiền lãi tính theo mức lãi suất 0,75%/tháng x 14 tháng = 15.225.000 đồng. Tổng cộng: 160.225.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) và lãi phát sinh đến khi giải quyết xong vụ án.

Ngoài ra tôi không có yêu cầu gì thêm.

Về phía bị đơn trong vụ án là ông Tạ Văn B, bà Nguyễn Thị L:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt cho ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đến làm việc, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về phiên hòa giải, Giấy triệu tập tham gia phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Giấy triệu tập tham gia phiên tòa, Quyết định hoãn phiên tòa và Thông báo mở lại phiên tòa. Ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L đều đã trực tiếp được nhận các văn bản tố tụng trên nhưng ông B và bà L vẫn cố tình không đến làm việc và tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng chứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập. Ông Bé và bà L cũng cố tình không có ý kiến gì thể hiện chính kiến về giải quyết cụ án. Tại phiên tòa bị đơn ông B và bà L có mặt và công nhận đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án. Về nội dung vụ án ông B và bà L cho rằng do tin tưởng phía bà X là bạn bè nên không xem xét kỹ giấy vay tiền và đã ký vào giấy vay tiền ngày 20/3/2017 mong Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định. Các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý đương sự, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định. Bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án cố tình vắng mặt, không cung cấp chứng cứ cho Tòa án, đến ngày xét xử lần thứ hai mới có mặt theo giấy triệu tập.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 463, 465, 466, 468 và 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015 xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Hoài X, buộc bị đơn ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ trả lại cho bà X số tiền đã vay là 145.000.000 đồng và lãi phát sinh từ tháng 3/2017 đến tháng 10/2018 là 19 tháng 24 ngày = 21.532.500 đồng. Tổng cộng: 166.532.500 đồng. Đồng thời buộc ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thẩm quyền giải quyết: Do bị đơn có nơi cư trú tại địa chỉ: Tổ , thị trấn K, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 35, điểm khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kông Chro.

Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền đã vay là 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và lãi phát sinh từ ngày 20/3/2017 đến khi giải quyết xong vụ án. Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án Toà án đã tiến hành tống đạt các giấy tờ theo luật định và ông B, bà L đều đã được nhận tất cả các văn bản. Tuy nhiên, ông B, bà L đều vắng mặt không có lý do. Việc không chấp hành của ông B, bà L thể hiện thái độ thiếu tôn trọng pháp luật, không những từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, mà còn gây cản trở cho Toà án trong quá trình giải quyết vụ án. Ông B, bà L phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa ông B và bà L có mặt nhưng cũng không cung cấp chứng cứ gi thêm.

Về nội dung vụ án: Do có quan hệ quen biết với nhau nên bà Phạm Thị Hoài X có cho vợ chồng ông B, bà L có vay tôi số tiền 145.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), khi vay hai bên có thỏa thuận lãi bằng miệng là 0,75%/tháng và hẹn đến ngày 10/4/2017 sẽ trả đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên đến thời hạn trả bà X đã gặp vợ chồng ông B, bà L nhiều lần để đòi nợ nhưng vợ chồng ông B, bà L cứ hứa hẹn nhưng không trả. Do đó bà X khởi kiện yêu cầu ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phaûi traû soá tieàn gốc là 145.000.000đ (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng) và lãi phát sinh từ tháng 3/2017 đến khi giải quyết xong vụ án theo mức lãi suất 0,75%/tháng. Phía bị đơn ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L cho rằng do tin tưởng phía bà X là bạn bè nên không xem xét kỹ giấy vay tiền và đã ký vào giấy vay tiền ngày 20/3/2017 mong Hội đồng xét xử xem xét.

Xét yêu cầu của bà X thì thấy rằng: Giao dịch dân sự về việc vay tài sản giữa bà X và vợ chồng ông B, bà L được xác lập trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa hai bên, không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội vì vậy giao dịch này là hợp pháp và các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng cũng như thực hiện đúng những thoả thuận, cam kết khi xác lập giao dịch. Bà X đã thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho ông B, bà L nhưng ông B, bà L lại không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo thoả thuận cho bà X. Như vậy, ông B, bà L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ mà mình đã cam kết và bà X khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B, bà L phải trả nợ là có căn cứ.

Xét giao dịch giữa bà X và ông B, bà L được giao kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện giữa các bên, phù hợp với các quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn được quy định tại Điều 470 của Bộ luật dân sự nên có hiệu lực pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự quy định: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Số tiền bà X cho ông B, bà L vay là 145.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi lăm triệu đồng), số tiền này đã được bà X trình bày trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà.

Ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ đã vay cho bà Phạm Thị Hoài X như đã thoả thuận theo quy định của pháp luật. Về khoản tiền lãi bà X yêu cầu một mức lãi suất là 0,75%/tháng không vượt quá mức quy định của pháp luật, có cơ sở cần chấp nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần chấp nhận yêu cầu của bà X về việc buộc ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phải trả số nợ 145.000.000 đồng tiền gốc và lãi phát sinh từ tháng 20/3/2017 đến tháng 13/11/2018, cụ thể: 145.000.000 đồng x 0,75%/tháng x 19 tháng 24 ngày = 21.532.500 đồng. Tổng cộng: 166.532.500 đồng.

Về án phí: Yêu cầu của bà X được chấp nhận nên ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm tương ứng, bà X được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, các Điều 227, 235, 264, 266 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 280, 281, 388, 463, 465, 466, 468 và 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hoài X.

- Buộc ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phải trả cho bà X số tiền đã vay là 145.000.000 đồng và lãi phát sinh từ tháng 20/3/2017 đến ngày xét xử (ngày 13/11/2018) số tiền 21.532.500 đồng. Tổng cộng: 166.532.500 đồng (Một trăm sáu mươi sáu triệu năm trăm ba mươi hai nghìn năm trăm đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về án phí:

+ Buộc ông Tạ Văn B và bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 8.326.625 đồng (tám triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn sáu trăm hai mươi lăm đồng).

+ Bà Phạm Thị Hoài X không phải chịu án phí sơ thẩm; hoàn trả lại cho bà X số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 4.005.625 đồng (bốn triệu không trăm lẻ năm nghìn sáu trăm hai mươi lăm đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0000082, ngày 20/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:05/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về