Bản án 04/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

- Bùi Minh A; tên gọi khác: Không; sinh ngày 19 tháng 7 năm 1992; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn 1, xã Đăk K, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Không ổn định; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Minh T và bà Đặng Thị H; bà H hiện trú tại: Thôn 1, xã Đăk K, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum; bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12 tháng 8 năm 2020 cho đến nay, ngày 20 tháng 01 năm 2021 (Có mặt tại phiên tòa).

Bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum.

Truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Người làm chứng;

- Nguyễn Thị L; năm sinh: 1993; địa chỉ: Thôn Ngọc T, xã Đăk X, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

- Bùi Minh H; năm sinh: 1984; địa chỉ: Thôn 1, xã Đăk K, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

- Dương Đạo B; năm sinh: 1996; địa chỉ: Thôn 1, xã Đăk K, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum (Vắng mặt tại phiên tòa).

- Hồ Thủy T; năm sinh: 1992; địa chỉ: Thôn 4, xã Đăk K, huyện Ngọc H, tỉnh Kon Tum; (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Minh A là đối tượng mới sử dụng Ma Túy; vì có quen biết từ trước nên vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/8/2020 An đến và đang thăm chơi tại phòng trọ của Hoàng Thị Nhung ở nhà số 221, đường Đinh Tiên Hoàng, tổ dân phố 2, thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum thì gặp một người tên là “Công”, không rõ lai lịch, địa chỉ; Công nói với An “Em có chơi thì lấy một ít về mà chơi”; An hiểu: Công muốn cho An ma túy để sử dụng; An đồng ý, Công liền ném một gói ma túy vào bụi cây gần đó rồi bỏ đi, sau đó An đến lấy gói ma túy bí mật đem vào phòng trọ của Nguyễn Thị Luyến sát phòng trọ của Nhung cất giấu gói ma túy tại rãnh (Khe hở) giữa tường phòng ở và tường khu vực nấu ăn để khi cần sẽ sử dụng. Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 12/8/2020 Bùi Minh An đến phòng Trọ của Hoàng Thị Nhung chơi và muốn sử dụng ma túy, nhưng gói ma túy lại đang cất giấu tại phòng của Nguyễn Thị Luyến; An sang phòng của Luyến và nói “Em sang phòng chị Nhung chơi, anh mượn phòng em có chút việc”, Luyến đồng ý và đi sang phòng của Nhung; một mình An trong phòng của Luyến, An tìm chai nhựa nước ngọt, ống hút nhựa làm thành bộ sử dụng ma túy đá; An lấy gói ma túy đã cất giấu ra, lấy ra bỏ một ít ma túy vào Nõ (Bộ phận của dụng cụ sử dụng ma túy), một ít bỏ vào mảnh niloong để ở giữa chiếu trải trong phòng trọ của Luyến; số ma túy còn lại trong gói niloong An cất giấu lại vào khe hở giữa hai vách tường như cũ. An đang sử dụng ma túy thì Luyến về phòng, thấy vậy thì cùng sử dụng ma túy với An; sau đó Dương Đạo Bắc là bạn của Luyến đến chơi thấy An và Luyến sử dụng ma túy thì Bắc cũng ngồi xuống chiếu và cùng sử dụng ma túy; ít phút sau thì Luyến sang phòng trọ của Nhung; An mượn xe của Bắc đi mua nước uống thì Bùi Minh Huy và Hồ Thủy Tiên cùng là bạn của (An, Bắc, Luyến) đến phòng của Luyến chơi, thấy Bắc sử dụng ma túy hai người này cùng sử dụng ma túy với Bắc; khi uống nước xong An quay lại phòng của Luyến và cùng với Bắc, Huy, Tiên tiếp tục sử dụng ma túy; do nhận được tin báo về việc sử dụng trái phép chất ma túy, khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020, Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang 04 người gồm An, Bắc, Huy, Tiên đang sử dụng ma túy; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong nhét tại giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến có chứa đựng chất nghi là chất ma túy; qua đấu tranh Bùi Minh An khai nhận chất thu được là ma túy của An cất giấu.

Các đối tượng Bùi Minh An, Nguyễn Thị Luyến, Bùi Minh Huy, Dương Đạo Bắc, Hồ Thủy Tiên cùng sử dụng chất ma túy là vi phạm quy định tại các Điều 57, 63, 68 Luật xử lý vi phạm hành chínhNghị định số 163/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ; cơ quan chức năng đã xử lý hành chính đối với các đối tượng có tên nêu trên, là đúng quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử không xem xét hành vi này.

Tang vật của vụ án thu được gồm:

- 01 (Một) túi niloong màu trắng, kích thước khoảng (5,5 x 3,5)cm, bên trong chứa chất nghi là ma túy có khối lượng là 4,114 gam, túi niloong được cuộn lại, cột bằng sợi dây thun màu đen.

- 01 bộ sử dụng ma túy đá tự chế, gồm có 01 cóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu trắng tím, 01 chai nhựa nắp chai màu đỏ có gắn ống nhựa màu xám đen và có cóng thủy tinh; 01 (một) mảnh niloong màu trong suốt trên mảnh niloong có vết cắt và vết nóng chảy;

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu NOKIA màu đen có gắn sim;

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO màu đen có gắn sim.

Tại Kết luận giám định số 162/KLGĐ-PC09, ngày 18/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Chất tinh thể rắn, màu trắng, được gói trong túi niloong màu trắng, kích thước khoảng (5,5 x 3,5)cm, được cuộn lại, cột bằng sợi dây thun màu đen (Ký hiệu M); khối lượng chất ma túy là 4,114 gam loại chất Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 63/CT-VKS ngày 20/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi tỉnh Kon Tum đã truy tố bị cáo Bùi Minh An về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Minh An về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, trên cơ sở khẳng định Bùi Minh An có nhân thân tốt (Chưa có tiền án, tiền sự); thật thà khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ của bị cáo có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Minh An từ 3 năm đến 4 năm tù.

Về xử lý tang vật và án phí:

Về án phí; đề nghị Hội đồng xét xử, sử lý theo quy định của pháp luật;

Căn cứ quy định tại Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng, gồm:

- Khối lượng 4,093 gam chất Methamphetamine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 162/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

- 01 bộ sử dụng ma túy đá tự chế, gồm có 01 cóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu trắng tím, 01 chai nhựa nắp chai màu đỏ có gắn ống nhựa màu xám đen và có cóng thủy tinh; 01 (một) mảnh niloong màu trong suốt trên mảnh niloong có vết cắt và vết nóng chảy;

Tuyên trả cho bị cáo Bùi Minh An tài sản không phải là tang vật của vụ án gồm:

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu NOKIA màu đen có gắn sim;

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO màu đen có gắn sim.

Người m chứng - Nguyễn Thị Luyến; có lời khai:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/8/2020 có thấy An đến thăm chơi tại phòng trọ của Hoàng Thị Nhung tại nhà số 221, đường Đinh Tiên Hoàng, tổ dân phố 2, thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Nguyễn Thị Luyến có thuê phòng trọ gần sát với phòng trọ Hoàng Thị Nhung; Bùi Minh An cất giấu gói chất ma túy trong phòng của Luyến vào lúc nào Luyến không biết. Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 12/8/2020 Bùi Minh An đến phòng Trọ của Hoàng Thị Nhung chơi; An có sang phòng của Luyến và nói “Em sang phòng chị Nhung chơi, anh mượn phòng em có chút việc”. Sau đó thì Luyến cùng Bùi Minh An, Bùi Minh Huy, Dương Đạo Bắc, Hồ Thủy Tiên cùng sử dụng ma túy; khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 thì Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong trong có chứa đựng chất ma túy cất giấu tại giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến là của An, đúng như Bùi Minh An khai.

- Dương Đạo Bắc; có lời khai: Vào khoảng 18 giờ 20 phút ngày 12/8/2020 Dương Đạo Bắc có đến phòng trọ của Nguyễn Thị Luyến chơi và có cùng với Bùi Minh An, Nguyễn Thị Luyến, Bùi Minh Huy, Hồ Thủy Tiên cùng sử dụng ma túy; khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 thì Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong có chứa đựng chất ma túy cất giấu tại giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến là của An, đúng như Bùi Minh An khai.

- Bùi Minh Huy; có lời khai: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 Bùi Minh Huy có đến phòng trọ của Nguyễn Thị Luyến chơi và cùng Bùi Minh An, Nguyễn Thị Luyến, Dương Đạo Bắc, Hồ Thủy Tiên sử dụng ma túy; khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 thì Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong có chứa đựng chất ma túy cất giấu giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến là của An, đúng như Bùi Minh An khai.

- Hồ Thủy Tiên; có lời khai: Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 Hồ Thủy Tiên có đến phòng trọ của Nguyễn Thị Luyến chơi và cùng Bùi Minh An, Nguyễn Thị Luyến, Bùi Minh Huy, Dương Đạo Bắc sử dụng ma túy; khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 thì Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong có chứa đựng chất ma túy cất giấu giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến thu được là của An, đúng như Bùi Minh An khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi, của Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người làm chứng không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các lời khai có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các vật chứng thu giữ được, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận; về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 10/8/2020 Bùi Minh An đến thăm chơi tại phòng trọ của Hoàng Thị Nhung tại nhà số 221, đường Đinh Tiên Hoàng, tổ dân phố 2, thị trấn Plei Kần, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Nguyễn Thị Luyến có thuê phòng trọ gần sát với phòng trọ Hoàng Thị Nhung; tại đây An gặp một người tên là “Công”, không rõ lai lịch, địa chỉ; Công cho An một gói niloong bên trong có chất ma túy; An lấy gói ma túy bí mật đem vào phòng trọ của Nguyễn Thị Luyến cất giấu vào rãnh (khe hở) giữa tường phòng ở và tường khu vực nấu ăn; khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 Bùi Minh An, Nguyễn Thị Luyến, Bùi Minh Huy, Dương Đạo Bắc, Hồ Thủy Tiên đang cùng sử dụng ma túy thì Công an huyện Ngọc Hồi kiểm tra và bắt quả tang; khám xét hiện trường, Công an thu được 01 (một) gói niloong trong có chứa đựng chất ma túy cất giấu tại giữa khe hai vách tường trong phòng trọ của Luyến là của bị cáo có khối lượng là 4,114 gam loại chất Methamphetamine. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội bị cáo phạm phải, là tội phạm nghiêm trọng.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý hàng cấm của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Ma túy là một loại độc dược gây nghiện, khi sử dụng nó sẽ làm cho con người bị lệ thuộc và mất đi nhân cách, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức xã hội và phát sinh các tội phạm khác. Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Nên cần xử cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống chung của gia đình, cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và để bị cáo tự cai nghiện là cần thiết; thời gian cách ly bị cáo phải đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, loại hình phạt, hình phạt bổ sung đối với bị cáo Bùi Minh An:

[4.1] Bị cáo Bùi Minh An có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; [4.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

Bị cáo mới sử dụng ma túy; khối lượng chất ma túy các đối tượng cùng sử dụng, bị cáo Bùi Minh An tàng trữ là của đối tượng khác cho, mục đích là để lôi kéo những thanh niên mới lớn xa vào con đường nghiện ngập. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ đẻ của bị cáo có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; thấy cần cho bị cáo được hưởng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng; sự đúng lý, đạt tình của pháp luật mà yên tâm phấn đấu cải tạo cho tốt, để được sớm trở về đoàn tụ với gia đình, hòa nhập với cộng đồng, trở thành công dân tốt.

[4.3] Hội đồng xét xử thấy; cần chấp nhận loại hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân nêu tại bản luận tội là phù hợp với quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự. Nhưng mức án, cần giảm nhẹ cho bị cáo.

[4.4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của pháp luật, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên; tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng là:

- Khối lượng 4,093 gam chất Methamphetamine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 162/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

- 01 bộ sử dụng ma túy đá tự chế, gồm có 01 cóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu trắng tím, 01 chai nhựa nắp chai màu đỏ có gắn ống nhựa màu xám đen và có cóng thủy tinh; 01 (một) mảnh niloong màu trong suốt trên mảnh niloong có vết cắt và vết nóng chảy;

Trả lại cho bị cáo tài sản không phải là vật chứng của vụ án, gồm:

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu NOKIA màu đen có gắn sim;

- 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO màu đen có gắn sim.

Các vật chứng nêu trên số lượng, đặc điểm, chất lượng, tính năng, giá trị như trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/01/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc hồi kèm theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 53/QĐ-VKS ngày 21/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/8/2020 của Công an huyện Ngọc hồi (BL số: 53).

Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Minh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Minh A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 12 tháng 8 năm 2020).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị hoặc không có giá trị sử dụng là:

+ Khối lượng 4,093 gam chất Methamphetamine hoàn trả sau giám định được chứa trong 01 (Một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 162/KL-GĐ-PC09” mặt sau có các hình dấu tròn có ghi nội dung “* PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ *CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký, ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán.

+ 01 bộ sử dụng ma túy đá tự chế, gồm có 01 cóng thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu trắng tím, 01 chai nhựa nắp chai màu đỏ có gắn ống nhựa màu xám đen và có cóng thủy tinh; 01 (một) mảnh niloong màu trong suốt trên mảnh niloong có vết cắt và vết nóng chảy;

- Trả lại cho bị cáo tài sản không phải là vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu NOKIA màu đen có gắn sim;

+ 01 (một) điện thoại đi động nhãn hiệu OPPO màu đen có gắn sim.

Các vật chứng nêu trên số lượng, đặc điểm, chất lượng, tính năng, giá trị như trong Biên bản giao nhận vật chứng; lập hồi 13 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 01 năm 2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngọc Hồi và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc hồi kèm theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 53/QĐ- VKS ngày 21/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngọc Hồi và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/8/2020 của Công an huyện Ngọc hồi (BL số: 53).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Bùi Minh A phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Căn cứ các Điều 331; 332; 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về