Bản án 04/2021/HSST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 04/2021/HSST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 244/2020/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 298/2020/QĐXXST - HS ngày 25/12/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/HSST ngày 05/01/2021 đối với các bị cáo:

1. Phan Văn A, Sinh ngày: 1989 tại: tỉnh BT; Nơi ĐKHKTT: Khu phố B, phường C, thành phố PT, tỉnh BT; Chỗ ở: Khu phố D, phường C, thành phố PT, tỉnh BT; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Phan Văn E, Sinh năm 1964; Nghề nghiệp: Làm nông; Trú tại: thị trấn F, huyện G, tỉnh BT; Con bà: Đỗ Thị H, Sinh năm 1968; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trú tại: Khu phố D, phường C, thành phố PT, tỉnh BT; Vợ: Phạm Thị Mỹ I; sinh năm 1986 (không đăng ký kết hôn); Con: Phan Nguyễn Minh J, Sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/08/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố PT "Có mặt".

2. Lê Tường K, Sinh ngày: 22/12/2001, tại Bình Thuận; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu phố L, thị trấn M, huyện N, tỉnh BT; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông: Lê Văn O, Sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Con bà: Phạm Thị P, Sinh năm 1982; Nghề nghiệp: Lao động tự do, Cùng trú tại: Khu phố L, thị trấn M, huyện N, tỉnh BT; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú” "Có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 19/03/2020 đến ngày 21/03/2020, Phan Văn A đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Lê Tường K tại khu phố Q, phường C, thành phố PT, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 21 giờ ngày 19/03/2020, Lê Tường K gọi qua ứng dụng mạng xã hội messenger cho Phan Văn A hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá thì A đồng ý bán và hẹn giao dịch tại nhà của A ở khu phố Q, phường C, thành phố PT. Nghe cuộc gọi xong, A mở ứng dụng messenger ra xóa cuộc gọi trao đổi mua bán ma túy giữa A và K. Sau đó, A lấy gói ma túy đá đựng trong bịch nylon không màu, hàn kín ở trên bàn của A cất dấu vào túi quần bên phải rồi ngồi đợi K tới để giao ma túy. Khoảng 22 giờ cùng ngày K đi đến trước cổng nhà gọi A đi ra và K đưa cho A 150.000 đồng (gồm: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng; 01 tờ mệnh giá 20.000 đồng và 03 tờ mệnh giá 10.000 đồng), sau khi nhận tiền từ K, A đưa cho K 01 gói ma túy đã cất dấu ở túi quần trước đó. K nhận ma túy từ A cất giấu vào túi quần bên trái, phía trước đi về phường S và một mình sử dụng hết số ma túy này.

Lần thứ hai: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 01 giờ ngày 21/03/2020, Lê Tường K gọi qua ứng dụng mạng xã hội messenger cho Phan Văn A hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá thì A đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại nhà của A ở khu phố Q, phường C, sau khi nghe cuộc gọi xong A xóa cuộc gọi trên ứng dụng messenger. Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày 21/3/2020, K đến trước cổng nhà A và thông báo với A là đã tới điểm hẹn để A giao ma túy. A đi ra thì K đưa cho A 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, A nhận tiền và đưa cho K 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy đá. Khi cả hai mới giao dịch mua bán ma túy xong, K đang cầm ma túy trong lòng bàn tay trái và A vừa cất 500.000 đồng có được từ việc bán ma túy cho K vào ví của mình thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố PT phối hợp với công an phường C bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (2,5 x 4,5)cm, chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong lòng tay trái của Lê Tường K, K khai nhận đó là ma túy đá vừa mua được của A để sử dụng, (ký hiệu M1 khi giám định).

+ Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 500.000 đồng, được thu giữ trong ví tiền của A, A khai nhận đó là tiền có được từ việc bán ma túy cho K.

+ 01 điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh đen, không có gắn sim. Thu giữ từ A.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RSX, màu đỏ đen, biển số 86B3- XXXX74. Thu giữ từ K.

Sau khi bắt giữ A về hành vi phạm tội nói trên, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố PT đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của A và phát hiện, thu giữ: 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (01 x 4,5)cm, chứa tinh thể màu trắng, thu giữ dưới tủ quần áo nhà của A, A khai nhận đó là ma túy đá của A. (ký hiệu M2 khi giám định).

A khai nguồn gốc ma túy có được là mua của một đối tượng tên X (không rõ nhân thân) quen biết ngoài xã hội vào ngày 19/03/2020 tại đường Y phía trước cổng trường Cao đẳng y tế BT, sau đó bán lại cho các con nghiện kiếm lời.

Tại bản Kết luận giám định số 262/KLGĐ-PC09 ngày 30/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng là 1,0545 gam; là Methamphetamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng là 0,1278 gam; là Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 229/CT - VKSPT ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT, tỉnh BT đã truy tố Phan Văn A về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 02 Điều 251 Bộ luật hình sự; bị cáo Lê Tường K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng tại điểm b khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo A mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù; áp dụng: điểm c khoản 01 Điều 249, điểm s khoản 01, Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo K mức án từ 15 tháng đến 21 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định 02 phong bì niêm phong số 262/1 và 262/2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Z và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ OPPO, bên trong có gắn sim số 0947AAA957 là phương tiện bị cáo A dùng vào việc liên hệ bán ma túy và số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo A là tiền phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Các bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thắm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 19/03/2020 đến ngày 21/03/2020, Phan Văn A đã hai lần bán trái phép chất ma túy cho Lê Tường K, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 22 giờ ngày 19/03/2020, tại khu phố Q, phường C, thành phố PT, Phan Văn A đã có hành vi bán trái phép cho Lê Tường K 01 tép ma túy đá với giá 150.000 đồng, số ma túy này sau khi mua được từ A, K đã một mình sử dụng hết.

Lần thứ hai: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 21/03/2020, tại khu phố Q, phường C, thành phố PT, Phan Văn A đã có hành vi bán trái phép cho Lê Tường K 01 tép ma túy có khối lượng 1,0545 gam, là Methamphetamine với giá 500.000 đồng để K sử dụng. Khi cả hai vừa giao dịch xong, K đang tàng trữ 01 tép ma túy có khối lượng 1,0545 gam, là Methamphetamine thì bị bắt quả tang.

Xét thấy, các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo A đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 02 Điều 251 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Bị cáo Phan Văn A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại chỗ ở của bị cáo (thuộc khu phố Q, phường C, thành phố PT) khối lượng 0,1278 gam, là Methamphetamine nhưng nhằm mục đích bán cho các con nghiện để kiếm lời nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy này.

Hành vi của bị cáo K đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Lê Tường K đã có hành vi hai lần mua ma túy của bị cáo Phan Văn A nhằm mục đích sử dụng, đối với lần mua ma túy ngày 19/03/2020 bị cáo K đã sử dụng hết, do đó không có cơ sở để xác định trọng lượng ma túy đã tàng trữ nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với lần tàng trữ này. Ngày 21/03/2020, Lê Tường K đã có hành vi tàng trữ 01 tép ma túy có khối lượng 1,0545 gam, là Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 01 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng viện kiểm sát nhân dân thành phố PT truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cho thấy, các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, các bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine là một trong những loại ma túy gây nghiện, nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ... chất ma túy trái phép. Các bị cáo biết rõ ma túy là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội nhưng các bị cáo xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả. Đối với bị cáo A có hành vi bán ma túy cho bị cáo K để kiếm lời. Đối với bị cáo K đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cao cho xã hội nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra, mức hình phạt đối với các bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Xét về nhân thân: các bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của hai bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự và xem xét nhân thân của các bị cáo, xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[6] Về xử lý vật chứng: mẫu vật còn lại sau giám định 02 phong bì niêm phong số 262/1 và 262/2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Z và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy, 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ OPPO, bên trong có gắn sim số 0947AAA957 là phương tiện bị cáo A dùng vào việc liên hệ bán ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo A là tiền phạm tội mà có thì tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với đối tượng tên X (không rõ nhân thân) bị cáo A khai là nguồn cung cấp ma túy, do không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể của đối tượng này. Nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố PT không có cơ sở để làm rõ xử lý.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave RSX, màu đỏ đen, biển số 86B3-XXXX74 là xe của bà Phạm Thị P của mẹ bị cáo K, bị cáo K lấy đi bà P không biết, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an PT đã xử lý vật chứng trả lại cho bà P chiếc xe trên là đúng theo quy định pháp luật.

[7] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ K hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: điểm b khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự.

*Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

*Xử phạt: Bị cáo Phan Văn A 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam ngày 26/8/2020.

*Căn cứ: khoản 01 Điều 249; điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật hình sự. *Tuyên bố: Bị cáo Lê Tường K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

*Xử phạt: Bị cáo Lê Tường K 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

*Biện pháp tư pháp:

+ Áp dụng: tại điểm a, b, c khoản 01 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b c khoản 02 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên:

-Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định 02 phong bì niêm phong số 262/1 và 262/2 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Z và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh BT là vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme, màu xanh đen không gắn sim là phương tiện phạm tội.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng là tiền phạm tội mà có.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo A để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 48 ngày 01 tháng 12 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố PT và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 01/12/2020 của kho bạc nhà nước).

*Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ K hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết.

Bị cáo Phan Văn A, Lê Tường K mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của các bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/01/2021). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HSST ngày 15/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về