Bản án 04/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HS-ST ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Trần Văn C, sinh năm 1989. Nơi cư trú: ấp Phú Hữu, xã Định Mỹ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn:

02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam;

con ông Trần Văn Đổ (chết) và bà Lý Thị Sạy, sinh năm 1958; Anh chị em ruột có 09 người, bị cáo là người thứ tám; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Võ Thị Diễm T, sinh năm 1996. Nơi cư trú: ấp Trung Thành, xã Phi Thông, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

2/ Anh Lê Minh H, sinh năm 1997. Nơi cư trú: Số 67 Nguyễn Văn Tú, tổ 5, khu phố 4, phường Vĩnh Thông, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 50 phút ngày 24/7/2020, Đội đặc nhiệm Công an huyện Thoại Sơn thực hiện kế hoạch tuần tra tuyến đường tỉnh 943, khi đến ấp Hòa Long, xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, phát hiện bị cáo Trần Văn C điều khiển xe mô tô biển số 68S1-564.33 một mình có biểu hiện nghi vấn nên Lực lượng yêu cầu dừng phương tiện kiểm tra hành chính, phát hiện trong túi quần jean phía trước bên trái của C có 01 bịch nylon có rãnh kéo viền màu đỏ kích thước 11,5 x 7cm bên trong có chứa 01 bịch nylon có rãnh kéo viền màu đỏ kích thước 7,5 x 4,2cm bên trong có chất tinh thể màu trắng. C khai nhận đây là ma túy đá, mua của người tên Thảo (không rõ họ, địa chỉ ở Thành phố Hồ Chí Minh) với giá 3.700.000 đồng để sử dụng nên lực lượng dẫn giải C về trụ sở Công an xã Định Thành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng xử lý.

Vật chứng thu giữ:

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Đặng Trung H; 01 giấy chứng minh nhân dân tên Trần Văn C; 01 điện thoại di động hiệu Realme 5; 01 xe mô tô biển số 68S1-564.33, có số khung RLHJF583XKZ613255, số máy JF86E - 5078861.

- 01 bịch nylon có rãnh kéo viền màu đỏ kích thước 11,5 x 7cm; 01 bịch nylon có rãnh kéo viền màu đỏ kích thước 7,5 x 4,2cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

- Tiền Việt Nam: 28.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 173/KLGT-PC09(MT) ngày 29/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận: Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 8,9761 gam.

Theo pH xét nghiệm ngày 25/7/2020 của Trung tâm y tế huyện Thoại Sơn, ghi nhận: Trần Văn C dương tính với Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số: 41/CT-VKSTS, ngày 05/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Minh H, chị Võ Thị Diễm T, trình bày: Năm 2018, anh chị có làm đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Đầu năm 2020, anh H mua xe mô tô biển số 68S1-564.33 đứng tên chủ sở hữu, sau đó cả hai không còn chung sống với nhau nên anh H giao xe cho chị T làm phương tiện đi lại. Ngày 24/7/2020, chị T cho bị cáo Trần Văn C mượn xe 68S1-564.33 đi công chuyện, việc bị cáo lấy xe đi đâu chị T không biết. Nay chị T yêu cầu nhận lại xe mô tô này.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với các vật chứng thu giữ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Văn C mức án từ 05 năm đến 06 năm tù Về phần vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sau khi vụ án xảy ra; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn C: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn C thừa nhận toàn bộ hình vi phạm tội của mình, bị cáo khai nhận: Ngày 24/7/2020, trên đường mua ma túy về sử dụng, bị cáo bị đội đặc nhiệm Công an huyện Thoại Sơn kiểm tra phát hiện trong túi quần jean phía trước bên trái của bị cáo có 01 bịch nylon, bên trong có chất tinh thể màu trắng. Căn cứ kết luận giám định đây là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 8,9761 gam. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận giám định khối lượng chất ma túy. Ngoài ra nó còn phù hợp với các chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, chẳng những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, tạo dư luận xấu trong nhân dân và có thể là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rằng chất ma túy là rất độc hại, Nhà nước cấm tàng trữ, nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, khi lượng hình cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không [5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thật thà khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ được vật chứng gồm:

- 01 phong bì màu trắng được niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ số 173/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 29/7/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký giáp lai ghi họ tên Nguyễn Đăng Khoa, Huỳnh Văn Trường;

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Đặng Trung H;

- 01 giấy chứng minh nhân dân tên Trần Văn C;

- 01 điện thoại di động hiệu Realme 5, màu xanh, số IME11:

865394040877392, số IME12: 865394040877384 (đã qua sử dụng);

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu đen, biển số 68S1-564.33, có số khung RLHJF583XKZ613255, số máy JF86E – 5078861 (đã qua sử dụng);

- 01 bịch nylon có rãnh kéo viền màu đỏ kích thước 11,5 x 7cm;

- Tiền Việt Nam: 28.000 đồng.

Các vật chứng này cần phân hóa ra để xử lý như sau:

- 01 phong bì màu trắng được niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ số 173/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 29/7/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký giáp lai ghi họ tên Nguyễn Đăng Khoa, Huỳnh Văn Trường đây là vật chứng liên quan trực tiếp đến vụ án nên cần tuyên bố tịch thu tiêu hủy.

- Đối với giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Trung H đây là giấy tờ tùy thân nên cần trả lại cho Đặng Trung H;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Realme 5, màu xanh, sos IME11:

865394040877392, sô IME12: 865394040877384 (đã qua sử dụng). Đây là vật chứng bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tuyên bố tịch thu phát mãi sung vào ngân sách nhà nước - Đối với giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Văn C và số tiền Việt Nam 28.000 đồng là của bị cáo C không liên quan gì đến vụ án nên cần tuyên bố trả lại cho bị cáo.

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Vision màu đen, biển số 68S1-564.33, có số khung RLHJF583XKZ613255, số máy JF86E – 5078861 (đã qua sử dụng) là của chị Võ Thị Diễm T bị cáo mượn sử dụng rồi sau đó làm phương tiện đi mua ma túy, chị T không hay biết, do vậy cần tuyên bố trả lại cho chị Diễm T.

[7] Đối với người tên Thảo do chưa xác định được đặc điểm, họ, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn C 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25 tháng 7 năm 2020.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng được niêm phong, dán kín, bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ số 173/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 29/7/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký giáp lai ghi họ tên Nguyễn Đăng Khoa, Huỳnh Văn Trường - Trả lại cho Đặng Trung H 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Đặng Trung H;

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn C 01 chứng minh nhân dân tên Trần Văn C và số tiền Việt Nam 28.000 đồng;

- Tịch thu phát mãi sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme 5, màu xanh, sos IME11: 865394040877392, sô IME12: 865394040877384 (đã qua sử dụng);

- Trả lại cho chị Trần Thị Diễm T 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu đen, biển số 68S1-564.33, có số khung RLHJF583XKZ613255, số máy JF86E – 5078861 (đã qua sử dụng).

(Các vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 25/QĐ-VKSTS ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn) Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về