Bản án 04/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 02 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, Tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2021/HSST ngày 07 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HS ngày 20/01/2021 đối với bị cáo :

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 1992;

Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: xóm P, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp : Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo : không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 và bà Vũ Thị Đ; vợ, con: chưa có;

Tiền án, tiền sự: không Lịch xử bản thân: Quyết định số 06/QĐ-CAKS ngày 14/12/2017 của Công an huyện K xử phạt Phạm Văn T 1.000.000đ về hành vi gây rối trật tự công cộng. Đã chấp hành xong ngày 18/12/2017.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/9/2020, chuyển tạm giam ngày 02/10/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (có mặt ).

*Người làm chứng: anh Trần Trọng Đ1 và anh Ninh Thành H (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 12 giờ 45 phút ngày 30/9/2020, Phạm Văn T điều khiển xe mô tô đi từ nhà đến khu vực cầu Q, xã H tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen b iết, hỏi và mua được của người này 01 gói ma túy với giá 1.000.000đ rồi cầm ở tay điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đường dong vật tư tuộc xóm 6, xã Đ, thấy vắng người, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra kiểm tra thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo gói nhỏ nêu trên, bị cáo khai nhận đó là gói hê rô in bị cáo vừa mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của bị cáo được gói ngoài bằng nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định trọng lượng chất bột bên trong có trọng lượng 1,51 gam ký hiệu M, gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám đ ịnh số 259/KLGĐ-PC09-MT ngày 01/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M có khối lượng 1,512 2gam là ma túy, loại hê rô in.

Bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 06/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng nêu trên và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 27 đến 30 tháng tù.

Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng đã thu giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay bị cáo Phạm Văn T hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo khai nhận bản thân bắt đầu sử dụng ma tuý từ đầu năm 2020 bằng hình thức hít hê rô in. Buổi trưa ngày 30/9/2020 sẵn có tiền trong người và lại có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đi xe mô tô từ nhà lên khu vực cầu Q thuộc xã H tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen b iết khoảng 50 tuổ i, đoán là người nghiện ma túy nên đã hỏi và mua được của người đó 01 gói hêrôin với giá 1.000.000đ, sau khi mua được hê rô in bị cáo cầm ở tay điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến đường dong Vật tư, thuộc xóm 6, xã Đ, thấy vắng người, bị cáo dừng xe đ ịnh mở gói ma túy ra xem thì bị công an kiểm tra phát hiện, thu giữ gói hê rô in bị cáo vừa mua và lập biên bản phạm tội quả tang đối với bị cáo.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, b iên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận với hành vi cất giấu trong ngư ời 1,5122gam Hêrô in nhằm mục đích sử dụng, bị cáo Phạm Văn T đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo trước pháp luật, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian tư ơng xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới đủ điều kiện để cải tạo đối với bị cáo. Bị cáo là người có tài sản, vì vậy cùng với hình phạt tù cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để tăng tính giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo khai báo thành khẩn, tự giác giao nộp gói hê rô in cho cơ quan công an và khai nhận hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại đ iểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

[4] Về nguồn gốc Hêrôin: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi ở khu vực cầu Q, xã H, huyện K, bị cáo không quen b iết ngư ời đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được vì vậy cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và b iện pháp tư pháp: Chiếc xe mô tô Yamaha, BKS 35K1-211.41 mà bị cáo sử dụng đi mua hê rô in là của bị cáo, do bị cáo đã làm mất đăng ký xe, nhưng qua điều tra xác định xe được đăng ký ngày 17/02/2017 mang tên bị cáo (Phạm Xuân T). Mặc dù bị cáo dùng xe đi mua ma túy, nhưng do bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần trả lại chiếc xe trên cho bị cáo, tuy nhiên cần tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án về án phí và tiền phạt.

Vật chứng hiện còn gồm 01 phong bì ghi số 259/KLGĐ-PC09-MT bên trong có vật chứng còn lại sau giám đ ịnh cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ nilon màu trắng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo, đây là vật cấm lưu hành và là vật không còn giá trị sử dụng vì vậy cần tịch thu cho tiêu.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy đ ịnh của pháp luật.

[7] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện hành vi tố tụng hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; đ iểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 30/9/2020; Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000đ sung quỹ nhà nước.

+ Áp dụng Điều 47 BLHS; Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha BKS 35K1-211.41, nhưng cần tiếp tục quản lý chiếc xe trên để đảm bảo thi hành án về án phí và tiền phạt.

- Tịch thu cho tiêu hủy 01phong bì ghi số 259/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đó ng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám đ ịnh cùng vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ nilon mầu trắng đã thu giữ của bị cáo.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 07/01/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K với Chi cục THADS huyện K) + Căn cứ Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy đ ịnh về án phí, buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người có quyền, nghĩa vụ thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án đư ợc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về