Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 187/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị A, sinh năm 1999. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã D, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Chỗ ở hiện nay: Ấp E, xã G, huyện H, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: Anh B, sinh năm 1998. Địa chỉ: Ấp I, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21 tháng 7 năm 2020, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn, chị A trình bày: Chị A và anh B xây dựng hôn nhân năm 2015, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Bạc Liêu và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 18/4/2018. Vợ chồng chung sống có một con chung tên Nguyễn Hoàng Sang, sinh ngày 17/10/2017, hiện nay đang sống chung với chị tại ấp N, xã P, huyện Q, tỉnh Sóc Trăng. Vợ chồng chị chung sống từ năm 2015 nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, vợ chồng chị chung sống với cha mẹ chồng và đi làm thuê nên chỉ đủ trang trãi cuộc sống hàng ngày, không tạo lập được tài sản chung. Vợ chồng chị cũng không thiếu nợ ai, không vay tiền, tài sản của cá nhân, tổ chức tín dụng và ngân hàng nào, cũng không ai thiếu tiền hay tài sản của vợ chồng chị.

Nguyên nhân ly hôn là do cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn về kinh tế và tình cảm, bất đồng ý kiến, không có tiếng nói chung, thường xuyên cự cãi, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, tuy là vợ chồng nhưng đã không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ đầu tháng 6 năm 2020 đến nay.

Nay chị A yêu cầu được ly hôn với anh B, không yêu cầu đoàn tụ; yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu O, yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật; tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét.

Đối với bị đơn anh B: Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu đã nhiều lần trực tiếp đến nhà anh B để tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu để làm việc, tham gia phiên họp và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh B không đến Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên không ghi nhận được ý kiến của anh Nguyễn Văn Giang đối với yêu cầu khởi kiện của chị A Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, các Điều 81, 82, 83, khoản 1 Điều 116, Điều 117, khoản 1 Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anh B. Xử cho chị A ly hôn với anh B. Giao con cho chị Giang tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Tài sản chung, nợ chung không có và không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình chị A phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Án phí dân sự về cấp dưỡng nuôi con anh Giang phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Chị A yêu cầu ly hôn và giải quyết về nuôi con, cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn với anh B, hiện nay anh B cư trú tại ấp I, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Anh B đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hai lần nhưng đều vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về hôn nhân: Chị A và anh B xây dựng hôn nhân năm 2015, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H1, huyện V, tỉnh Bạc Liêu và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 18/4/2018 nên hôn nhân giữa chị A và anh B là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trong thời gian chung sống đã xảy ra mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc, bất đồng ý kiến, không có tiếng nói chung, tuy là vợ chồng nhưng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và anh chị đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay. Nay chị A yêu cầu ly hôn với anh B. Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân phải dựa trên cơ sở tự nguyện của cả vợ lẫn chồng, cùng nhau chăm sóc, yêu thương nhau nhưng ở đây chị A và anh B đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, mặc khác, chị A và anh B đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay và không có biện pháp gì để hàn gắn. Tại biên bản xác minh ngày 01/12/2020, ông R - trưởng ấp I, xã L, huyện V, tỉnh Bạc Liêu xác định, chị A và anh B phát sinh mâu thuẫn từ năm 2019, hiện nay không còn chung sống với nhau còn ly thân thời gian nào và lý do vì sao sống ly thân thì ông không rõ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A và anh B.

[3.2] Về con chung: Quá trình chung sống, chị A và anh B có một con chung tên O, sinh ngày 17/10/2017, hiện nay đang sống chung với chị A. Chị A có nguyện vọng được tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu O, yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Xét thấy, hiện nay cháu O đang sống ổn định với chị A và cháu còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ nên cần tiếp tục giao cháu O cho chị A trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị A yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Căn cứ vào khoản 2 Điều 82, khoản 1 Điều 83, khoản 1 Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình , việc chị A yêu cầu anh B – người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, anh B không trực tiếp nuôi cháu O có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi tháng 800.000 đồng kể từ tháng 02 năm 2021 cho đến khi cháu O đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại khoản 1 Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, anh B không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị A xác định vợ chồng chị chung sống không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, chị A, anh B phải chịu theo quy định pháp luật.

[5] Các quan điểm đề xuất việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa, như đã phân tích, là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, các Điều 81, 82, 83, khoản 1 Điều 116, Điều 117, khoản 1 Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và mục A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016).

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A đối với anh B. Xử cho chị A được ly hôn với anh B.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu O, sinh ngày 17/10/2017 cho chị A tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Cháu O đang sống chung với chị A nên chị A được tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu O.

2.2. Anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu O, sinh ngày 17/10/2017 mỗi tháng 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 02 năm 2021 cho đến khi cháu O đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

2.3. Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có và không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về án phí:

4.1. Về án phí Hôn nhân và Gia đình: Chị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị A đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008273 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên được chuyển thu án phí.

4.2. Anh B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về