Bản án 04/2020/DS-ST ngày 23/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA - TỈNH GIA LAI

 BẢN ÁN 04/2020/DS-ST NGÀY 23/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

 Trong ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 09/2020/TLST-DS, ngày 21 tháng 01 năm 2020, về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXX-ST, ngày 01 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Thôn Sông Ba, xã Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Bị đơn: Bà Nguyễn Lâm Lệ H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thôn Huy Hoàng, x Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hòa Văn Th, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn Mới, x Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Ông Phạm Hữu L, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Thôn Mới, x Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph trình bày:

Từ quan hệ làm ăn nên bà Nguyễn Lâm Lệ H hay đến nhà tôi nhờ tôi vay tiền, vay nhiều lần cụ thể các lần như sau: Ngày 16/6/2018 bà H vay 100.000.000 đồng; ngày 29/3/2018 vay 40.000.000 đồng; ngày 10/2/2018 vay 40.000.000 đồng; ngày 30 âm lịch năm 2016 vay 100.000.000 đồng; ngày 19/6/2019 bà H nhờ tôi trả số tiền bà H vay của ông Phạm Hữu L (địa chỉ: Thôn Mới, x Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) số tiền 50.000.000 đồng. Như vậy bà H nợ tôi tổng cộng số tiền là 330.000.000 đồng. Vào ngày 26/01/2019 bà H vay của tôi số tiền 30.000.000đ, nhưng giấy nhận nợ lại viết bà Huyền nợ ông Hòa Văn Th nên nay tôi yêu cầu bà H trả lại số tiền này cho tôi. Tổng cộng qua các lần bà H tự một mình đứng ra vay của tôi số tiền là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng) Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Lâm Lệ H phải trả cho bà Nguyễn Thị Ph số tiền là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng), bà Phin không yêu cầu tính lãi đối với số tiền trên.

Theo biên bản lấy lời khai của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa lập ngày 25/02/2020 và biên bản hòa giải ngày 20/5/2020 và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Nguyễn Lâm Lệ H trình bày:

Bà Nguyễn Thị Ph khởi kiện tôi tổng số tiền là 330.000.000 đồng, gồm có 05 lần vay cụ thể là: Ngày 16/6/2018 vay 100.000.000 đồng; ngày 29/3/2018 vay 40.000.000 đồng; ngày 10/2/2018 vay 40.000.000 đồng; ngày 30 âm lịch (không nhớ rõ ngày tháng năm) vay 100.000.000 đồng; ngày 19/6/2019 trả số tiền tôi vay của ông Phạm Hữu L (địa chỉ: Thôn Mới, x Chư Rcăm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) số tiền 50.000.000 đồng. Đối với số tiền bà Ph trả cho ông Th số tiền 30.000.000 đồng, đây là số tiền tôi vay của ông Th nhưng người đưa tiền trực tiếp cho tôi là bà Ph, nay tôi đồng ý là có nợ bà Ph số tiền nợ 30.000.000 đồng. Tôi đồng ý hiện nay tôi còn nợ bà Nguyễn Thị Ph tổng số tiền là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng). Hiện nay tôi đang gặp nhiều khó khăn nên tôi mong bà Ph tạo điều kiện cho tôi được trả dần số nợ 360.000.000 đồng trong vòng 10 năm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hòa Văn Th trình bày như sau:

Vào ngày 26/01/2019 bà H có viết giấy vay tiền, nội dung bà H vay của tôi số tiền 30.000.000 đồng, hẹn đến ngày 30 tháng 3 âm lịch sẽ trả hết số tiền này. Tuy nhiên người đưa trực tiếp số tiền 30.000.000 đồng cho bà H là bà Nguyễn Thị Ph chứ thực tế bà H không nhận từ tôi bất kỳ khoản tiền nào. Do đó bà Ph khởi kiện đòi bà H là đúng, tôi không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này. Tôi cam kết giao giấy nợ gốc cho Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Hữu L:

Vào ngày 19/01/2019 bà H có viết giấy vay tôi số tiền 50.000.000 đồng, tuy nhiên người đưa trực tiếp số tiền 50.000.000 đồng cho bà H là bà Nguyễn Thị Ph chứ thực tế bà H không nhận từ tôi bất kỳ khoản tiền nào. Do đó bà Ph khởi kiện đòi bà H là đúng, tôi không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này. Tôi cam kết giao giấy nợ gốc cho Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định.

Về tài liệu, chứng cứ: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ph  đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ gồm: 06 (sáu) giấy vay tiền (giấy gốc).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai phát biểu về việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph, tuyên bà Nguyễn Lâm Lệ H có nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph số tiền 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng) Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 18.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Lâm Lệ H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Huy Hoàng, x Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ph, xét thấy: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, kèm theo các tài liệu, chứng cứ là giấy vay tiền và sự thừa nhận của bà Nguyễn Lâm Lệ H là tự bà đi vay cũng như là người trực tiếp viết và ký vào các giấy vay tiền, Hội đồng xét xử  đã có đủ cơ sở xác định bà H có nợ bà Ph tổng số tiền qua các lần vay là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng). Tại biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa bà Nguyễn Lâm Lệ H đã thừa nhận và xác định số tiền còn nợ bà Nguyễn Thị Ph là 360.000.000 đồng. Xét thấy hai bên vay mượn là hoàn toàn tự nguyện, bảo đảm các quy định của pháp luật nên có giá trị pháp lý ràng buộc trách nhiệm đối với các bên. Theo hợp đồng vay tài sản nói trên thì đến nay  đã quá hạn trả nợ, nhưng bà Nguyễn Lâm Lệ H vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Lâm Lệ H phải trả số tiền nợ là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng) là có căn cứ theo quy định tại các Điều 275, 280, 463, 466 của Bộ luật dân sự 2015. Do đó cần buộc bị đơn bà Nguyễn Lâm Lệ H phải trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph số tiền nợ là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng).

[3] Bị đơn bà Nguyễn Lâm Lệ H có ý kiến xin được trả dần số tiền 360.000.000 đồng trong vòng 10 năm, tuy nhiên nguyên đơn không đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận.

[4] Về án phí: Bà Nguyễn Lâm Lệ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 63, Điều 147, Điều 235, Điều 266, Điều 267 và Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 275, 280, 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ph.

Buộc bà Nguyễn Lâm Lệ H phải có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Ph số tiền nợ là 360.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của BLDS, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian của số tiền còn phải thi hành án.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Lâm Lệ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch là 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng). Hoàn trả 8.250.000 đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) và 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị Ph theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006214 ngày 21/01/2020 và biên lai thu tạm ứng án phí số 0006239 ngày 05/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.

3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để xét xử phúc thẩm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 04/2020/DS-ST ngày 23/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:04/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về