Bản án 04/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 25 tháng 01 năm 2019 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Nam Trung, Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H, sinh ngày: 14/10/1981 tại xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn L, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh P và bà Nguyễn Thị Ng; có chồng là Đặng Quốc K và có 02 con; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

+Người bị hại: Bà Phạm Thị L, sinh năm: 1967 (Đã chết do tai nạn giao thông)

+ Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1966 ( Chồng bà L)

- Anh Phạm Ngọc D, sinh năm: 1991 (Con trai bà L)

Đều cư trú: Thôn Đ, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình.

- Cụ Nguyễn Thị M, sinh năm: 1944 (Mẹ bà L)

Địa chỉ: Thôn L, xã D, huyện H, tỉnh Thái Bình

+ Người làm chứng: Chị Phạm Thị Ph, sinh năm: 1993

Nơi cư trú: Thôn N, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(Ông T có mặt, anh D, cụ Mật và chị Ph vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h00’ngày 05/10/2018, sau khi hết giờ làm việc tại Công ty TNHH A có trụ sở tại thôn T, xã L, huyện H, Nguyễn Thị H điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát: 17B8-294.04 chở theo sau là chị Phạm Thị Ph (là công nhân làm cùng với H) đi từ công ty ra đường 465 hướng từ thị trấn T về xã M. Khi đến Km 5+300 đường 465 thuộc địa phận thôn Đ, xã L, huyện H thì Hoà phát hiện phía trước cách xe mô tô của H khoảng 20 mét có bà Phạm Thị L đang đi bộ sang đường hướng từ trái qua phải theo chiều đi của H. Thời điểm này bà L đã đi ra đến giữa phần đường phía bên phải, chị Ph ngồi sau xe mô tô cũng phát hiện thấy có người đi bộ sang đường nhưng H không giảm tốc độ mà vẫn điều khiển xe mô tô chạy bình thường. Thấy nguy cơ mất an toàn, chị Ph đập tay vào vai Hoà nhắc: “Đằng trước có người, chị đi chậm lại thôi” nhưng H vẫn cho xe chạy với vận tốc khoảng 40km/h, khi xe H cách vị trí bà L khoảng 5 đến 10 mét do khoảng cách quá gần, Hoà không kịp xử lý nên bánh trước xe mô tô do H điều khiển đã đâm vào phía sau chân trái của bà L làm bà L ngã ra đường. Hậu quả, bà L bị gãy chân trái, vỡ xương sọ ở vùng đầu được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình đến 23giờ 50phút cùng ngày thì tử vong.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng18h00’ngày 05/10/2018, sau khi hết giờ làm việc tại Công ty TNHH A, bị cáo điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát: 17B8 - 294.04 chở theo sau là chị Phạm Thị Ph (là công nhân làm cùng với bị cáo) đi từ công ty ra đường 465 hướng từ thị trấn T để về xã M. Khi đến Km 5+300 đường 465 thuộc địa phận thôn Đ, xã L, huyện H thì bị cáo phát hiện phía trước cách xe mô tô của bị cáo khoảng 20 mét có người đi bộ sang đường (sau này bị cáo mới biết là bà L) theo hướng từ trái qua phải theo chiều đi của bị cáo. Do không làm chủ tốc độ nên xe của bị cáo đã đâm vào phía sau chân trái của bà L làm bà L bị ngã ra đường và đến 23 giờ 50 phút cùng ngày thì bà L bị chết do tai nạn giao thông.

Tại bản cáo trạng số 03/ CT-VKSTH ngày 11 tháng 01 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 1 điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 50, điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 01 (Một) năm đến 01 (Một năm) 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 02 (Hai ) năm đến 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng.

- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

- Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã trả lại chiếc xe mô tô cho bị cáo Nguyễn Thị H; Tịch thu tiêu hủy 01 áo phông ngắn tay màu xanh- đỏ- trắng và 01 quần dài cạp chun vải thun màu hồng của bà Phạm Thị L.

- Về án phí: Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại và người làm chứng không khiếu nại hay có ý kiến gì. Nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Sơ đồ hiện trường và biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải lập ngày 05/10/2018 xác định: Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Km 5+300 đường 465 thuộc địa phận thôn Đ, xã L, huyện H tính theo hướng từ thị trấn T đi xã M (hướng Tây - Đông), hiện trường vụ tai nạn xảy ra trên mặt đường đá dải áp phan tương đối bằng phẳng, lòng đường rộng 11 mét, giữa đường có vạch kẻ đường đứt quãng màu vàng phân chia hai phần đường xe chạy, tại mỗi phần đường có vạch kẻ đứt quãng màu trắng đo ra mép đường rộng 2 mét. Lề đường bên phải rộng 2 mét 50, lề đường bên trái rộng 4 mét. Khu vực hiện trường đông dân cư sinh sống, không có đèn cao áp hai bên đường.

Xe mô tô Biển kiểm soát: 17B8-294.04 nằm đổ nghiêng bên trái trên mặt đường, đầu xe hướng Đông Nam, đuôi xe hướng Tây Bắc. Khoảng cách đo từ trục bánh trước xe đo ra mép đường bên phải là 4mét30.

Hiện trường để lại 02 vết cày đứt quãng và 01 vết máu ở trên mặt đường.

Trong đó vết cày đầu tiên là vết cày đứt quãng đo 9m10 x 0m02 x 0m001 trên mặt đường, vết hướng Tây – Đông Bắc. Khoảng cách đo từ đầu vết cày ra mép phải đường là 03m10, cuối vết cày trùng với giá để chân trước bên trái xe mô tô.Vết cày thứ hai là vết cày đứt quãng đo 06m70 x 0m02 x 0m001 trên mặt đường, vết hướng Tây – Đông Bắc. Khoảng cách đo từ đầu vết cày ra mép phải đường là 03m55, cuối vết cày trùng với giá để chân sau bên trái xe mô tô.Từ đầu vết cày 1 đo đến đầu vết cày 2 là 02m20.

- Biên bản khám nghiệm tử thi do Trung tâm giám định pháp y tỉnh Thái Bình lập ngày 06/10/2018 đối với bà Phạm Thị L.

- Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông do Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình lập ngày 08/10/2018.

- Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 144/PY/PC 09 ngày 09/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Bà Phạm Thị L bị đa chấn thương vùng đầu và toàn thân do tai nạn giao thông làm vỡ xương sọ vùng đỉnh phải, dập não, gẫy hai xương cẳng chân trái. Nạn nhân chết do chấn thương sọ não.

- Bản ảnh khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.

- Lời khai của người làm chứng là chị Phạm Thị Ph sinh năm 1993, trú tại Thôn N, xã M, huyện H Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18h00’ ngày 05/10/2018, Nguyễn Thị H điều khiển xe mô tô BKS: 17B8 – 294.04 (có giấy phép lái xe) chở theo sau là chị Phạm Thị Ph đi hướng từ thị trấn T về xã M, khi đến Km 5+300 đường 465 thuộc địa phận thôn Đ, xã L, huyện H. Do chủ quan, không giảm tốc độ, không làm chủ tay lái đã đâm vào phía sau chân trái của bà Phạm Thị L đang đi bộ sang đường cùng chiều. Hậu quả, bà Phạm Thị L bị ngã ra đường, gãy chân trái, vỡ xương sọ ở vùng đầu được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình đến 23h50’ cùng ngày thì chết do chấn thương sọ não Tại điều 260 Bộ luật Hình sự quy định về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

…………………………………………………………………………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Bị cáo Nguyễn Thị H điều khiển xe mô tô BKS 17B8-294.04 có giấy phép lái xe tham gia giao thông đường bộ đã không tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, hậu quả làm bà Phạm Thị L bị chết. Đối chiếu với quy định tại điều 260 Bộ luật Hình sự, hành vi của bị cáo đã phạm tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 260 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng [3]. Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Tai nạn giao thông đang là một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội và hàng ngày, hàng giờ cướp đi tính mạng của nhiều con người vô tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo: Về nhân thân, bị cáo Nguyễn Thị H xuất thân từ người lao động thuần túy, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của người bị hại, trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng và được tặng thưởng Huân chương hạng ba. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, xét thấy bị cáo phạm tội do lỗi vô ý, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của người bị hại để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, bị cáo đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1, hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự và có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết phải xử phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng điều 65 Bộ luật Hình sự và điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú và ấn định một thời gian thử thách nhất định cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình, xã hội như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp và thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thị H đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu, đề nghị gì thêm về việc bồi thường phần trách nhiệm dân sự nên không đặt ra giải quyết.

[7]. Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra,Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã lập biên bản quản lý 01 xe mô tô Biển kiểm soát: 17B8-294.04 của bị cáo Nguyễn Thị H; 01 áo phông ngắn tay màu xanh - đỏ - trắng, 01 quần dài cạp chun vải thun màu hồng dài 82 cm của bà Phạm Thị L để tiến hành khám nghiệm phương tiện, dấu vết.

Đối với chiếc xe mô tô Biển kiểm soát: 17B8-294.04, sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã trả lại chiếc xe mô tô cho bị cáo Nguyễn Thị H là phù hợp với quy định tại điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 áo phông ngắn tay màu xanh - đỏ - trắng, 01 quần dài cạp chun vải thun màu hồng dài 82 cm của bà Phạm Thị L, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của người bị hại không có yêu cầu nhận lại và giá trị sử dụng không lớn nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về vấn đề khác của vụ án:Trong vụ án này, có chị Phạm Thị Ph là người ngồi sau xe mô tô do Hoà điều khiển, khi xảy ra tai nạn, chị Ph có bị xây xước nhẹ bên ngoài da, chị Ph từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường. Vì vậy không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự, bồi thường trách nhiệm dân sự đối với hành vi của Nguyễn Thị H đã gây ra cho chị Ph.

[9]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10].Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 50, điều 65 Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; điều 106, khoản 2 điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “ Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2019).

Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Ủy ban nhân dân xã Đông Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại điều 69 Luật thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới”.

3. Về vật chứng: - Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã trả lại chiếc xe mô tô cho bị cáo Nguyễn Thị H.

- Tịch thu tiêu hủy 01 áo phông ngắn tay màu xanh - đỏ - trắng, 01 quần dài cạp chun vải thun màu hồng dài 82 cm của bà Phạm Thị L.

(Vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/01/2019 giữa Công an huyện Tiền Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải).

4/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 25/01/2019.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

684
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về