Bản án 04/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Kha Văn B - sinh ngày 01 tháng 7 năm 1963 tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: bản PH, xã PĐ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kha Văn B và bà Kha Thị B (đều đã chết); Vợ: Lương Thị O và 02 người con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/9/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công Thiết – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lương Văn Kh, sinh năm 1985. Vắng mặt.

Địa chỉ: Bản PH, xã PĐ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/9/2018, tại khu vực bản PH, xã PĐ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện bắt quả tang Kha Văn B đang có hành vi tàng trữ 02 (hai) viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) được gói bằng bao pôtylen màu xanh.

Quá trình điều tra B khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 30/9/2018, B đang ở nhà thì có một thanh niên người dân tộc Khơ mú không quen biết đến hỏi B “anh có ma túy tổng hợp không?”, B trả lời “không có, đi mua của người khác”; thanh niên đó nói “em không quen ai nên không biết mua ở đâu, nhờ anh đi mua giúp em”, rồi đưa cho B số tiền 160.000 (một trăm sáu mươi ngàn) đồng, B cầm tiền rồi đi bộ lên khu vực rẫy thuộc bản PH, xã PĐ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì gặp một người đàn ông không quen biết người dân tộc Mông, khi gặp người đàn ông đó B hỏi “anh có ma túy không?”, người đàn ông trả lời “có, anh muốn lấy à, lấy bao nhiêu”, B nói “cho tôi ba viên” đồng thời đưa số tiền 160.000 (một trăm sáu mươi ngàn) đồng, người đàn ông cầm tiền rồi đưa cho B 03 (ba) viên ma tuý tổng hợp và phụ lại cho 40.000đ (bốn mươi ngàn) đồng.

Mua ma tuý xong, B lấy bao pôtylen màu xanh gói lại rồi đi bộ về nhà. Sau khi về đến nhà, B đưa lại số tiền 40.000 (bốn mươi ngàn) đồng còn thừa cho người thanh niên dân tộc Khơ Mú, đồng thời lấy 01 (một) viên ma tuý tổng hợp rồi cả hai cùng sử dụng. Khi B và người thanh niên Khơ mú đang sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn bắt quả tang, thu giữ số tang vật trên, còn thanh niên kia lợi dụng sơ hở trốn thoát.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 30/9/2018 đã xác định:

Hai viên nén màu hồng thu giữ của Kha Văn B có khối lượng 0,2g (không phẩy hai gam).

Hội đồng đã trích 01 (một) viên nén màu hồng có khối lượng 0,1g (không phẩy một gam) để gửi đi giám định.

Ngày 30/9/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã có quyết định trưng cầu giám định số 800 để trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An giám định viên nén màu hồng thu giữ của Kha Văn B. Tại kết luận giám định số 1120/KL- PC09 (MT) ngày 04/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Kha Văn B gửi tới giám định là chất ma tuý Methamphetamine.

Về vật chứng của vụ án:

Số chất ma tuý Methamphetamine là vật chứng còn lại có khối lượng 0,1 (không phẩy một) gam và vỏ giấy niêm phong ban đầu đã được CQĐT chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định.

Cáo trạng số: 05/VKS-HS-KS ngày 19/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố bị cáo Kha Văn B về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét động cơ, mục đích phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu vùng xa, nhận thức về pháp luật còn hạn chế; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự nên cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất của khung hình phạt là 01 năm tù.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử đề nghị: giữ nguyên việc truy tố bị cáo Kha Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo; tịch thu tiêu hủy toàn bộ số vật chứng của vụ án; bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Trong quá trình điều tra: Cơ quan điều tra, Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Kha Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng giờ 11 giờ 30 phút phút ngày 30/09/2018, tại khu vực bản PH, xã PĐ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Kha Văn B đã có hành vi tàng trữ 0,2 (không phẩy hai) gam chất ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết tội bị cáo B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an trên địa bàn mà còn gây tác hại cho sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, phá hoại hạnh phúc gia đình và tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ ma túy là chất nhà nước cấm nhưng khi được người thanh niên người dân tộc Khơ mú nhờ mua ma túy bị cáo vẫn mua để sử dụng chứng tỏ bị cáo là người liều lĩnh và coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo lao động, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xét thấy cần giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tài sản không có nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[4] Về vật chứng: 01 vỏ giấy niêm phong cũ; 0,1 (không phẩy một) gam chất ma túy Methamphetamine là những vật không có giá trị, vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này có người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma tuý cho B và người thanh niên dân tộc Khơ mú nhờ B đi mua ma tuý, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của hai người đàn ông này. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau. 

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Kha Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Kha Văn B 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/9/2018.

- Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư bưu điện loại đang lưu hành, xung quanh có viền xanh đỏ trên mép dán có đầy đủ chữ ký của hội đồng tham gia niêm phong và dấu điểm chỉ của Kha Văn B, bên trong có: Số ma túy tổng hợp có khối lượng là 0,1 (không phẩy một) gam và vỏ giấy niêm phong ban đầu.

Toàn bộ vật chứng nêu trên có đặc điểm được ghi tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/12/2018 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý va sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Kha Văn B phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về