Bản án 04/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Thanh V, sinh năm 1973. Nơi sinh: Xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: Ấp 17, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Con ông Võ Văn N (đã chết) và bà Võ Thị Kim C (đã chết); Bị cáo chưa có vợ con. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/10/2018 đến ngày 30/10/2018 thì tạm giam cho đến nay. Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 lần, ngày 30/3/2012 Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử bị cáo 10 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2018, bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và án phí hình sự.

Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1984. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 17, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2/ Anh Trần Thanh D, sinh năm 1961. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp 17, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

3/ Anh Lê Quốc P, sinh năm 1986. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp H, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1968. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 17, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 25/10/2018 Công an huyện Cai Lậy bắt quả tang Võ Thanh V có hành vi tàng trữ một bịch nylon bên trong có chứa tinh thể màu trắng được hàn kín, có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu để trong túi màu xanh có dây kéo trên bàn thờ ông địa ngay cạnh cửa buồng tại nhà Võ Thanh V. Công an huyện Cai Lậy tiếp tục khám xét nơi ở của V đã thu giữ tám bịch nylon màu trắng trong suốt hàn kín xung quanh, có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một đầu bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng để trong một cái bóp màu đen ở học tủ bàn gỗ trong phòng ngủ và hai bịch nylon màu trắng trong suốt hàn kín xung quanh, có khe hở bóp một đầu, có một viền đỏ một đầu bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng gói trong tờ giấy lịch có số 7, để trong bịch nylon màu xanh bên trên có dòng chữ “Tâm Nguyên” được cất giấu trong bàn chải chà chân màu xanh đậm.

Tang vật thu giữ gồm: Mười một bịch nylon màu trắng, trong suốt được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng; một túi màu xanh; một cây cân điện tử màu đen; một cái nỏ thủy tinh; một bì thư bằng giấy; 160 bịch nylon màu trắng được hàn kín có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một bao gồm: 61 bịch có kích thước 7,5 x 4,3 cm, 77 bịch có kích thước 4 x 1,5 cm, 05 bịch có kích thước 9,5 x 6 cm, 06 bịch có kích thước 2 x 1,6 cm, 03 bịch có kích thước 2,5 x 1,7 cm, 08 bịch có kích thước 3,5 x 1,6 cm; 01 bộ bình tự chế; hai ống hút nhọn có một đầu màu trắng xanh; 09 hột quẹt gas; 06 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại màu đỏ đen hiệu Viettel, 01 điện thoại màu vàng đen hiệu Xperia, 01 điện thoại màu tím hiệu Nokia, 01 điện thoại màu đỏ đen hiệu LG, 01 điện thoại màu hồng hiệu đopod 220, 01 điện thoại màu trắng hiệu BlackBerry; 03 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cái bóp màu đen; 01 cái bàn chải chà chân màu xanh đậm và tiền Việt Nam là 5.100.000 đồng.

Theo kết luận giám định số 190/KLGĐ-PC54 ngày 29/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng trong một gói nylon màu trắng có viền đỏ một đầu, được hàn kín, để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu gói số 1) gửi giám định là ma túy có khối lượng là 4,1389 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu tinh thể màu trắng trong tám gói nylon màu trắng có viền đỏ một đầu, được hàn kín, để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu gói số 2) gửi giám định là ma túy có khối lượng là 1,7683 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu tinh thể màu trắng trong hai gói nylon màu trắng có viền đỏ một đầu, được hàn kín, để trong một bì thư được niêm phong (ký hiệu gói số 3) gửi giám định là ma túy có khối lượng là 17,3623 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cai Lậy bị cáo Võ Thanh V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo thống nhất với kết luận của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng của Viện kiểm sát.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Võ Thanh V đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKSCL ngày 07 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Võ Thanh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự phạt bị cáo Võ Thanh V từ 08 đến 09 năm tù và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo về thờ cúng cha mẹ và lo làm ăn sinh sống.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cai Lậy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, thể hiện bị cáo Võ Thanh V có hành vi cất giấu bất hợp pháp 11 bịch nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng được hàn kín xung quanh, qua giám định đã được kết luận là ma túy tổng hợp, khối lượng 23,2695 gam loại Methamphetamine, mục đích cất giấu ma túy để sử dụng dần. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Võ Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[3] Hành vi của bị cáo Võ Thanh V là rất nguy hiểm, nó đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với ma túy, Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi của công dân về việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán, trao đổi trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Ma túy là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm hình sự. Thực tế cho thấy ma túy là bạn đồng hành của tội phạm, mối quan hệ giữa ma túy và tội phạm là mối quan hệ nhân quả. Ma túy gắn liền với hành vi phạm tội, là nguồn bổ sung tội phạm. Bị cáo đã có một tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới rất nghiêm trọng do cố ý. Hành vi của bị cáo V là nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự điều chỉnh, bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, cần áp dụng pháp luật hình sự để xử lý nghiêm khắc hành vi của bị cáo để bị cáo có đủ thời gian cải tạo bản thân trở thành một công dân có ích cho xã hội và đồng thời cũng để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở xem xét đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo đã có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới, phạm tội rất nghiêm trọng, nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

Thời gian Võ Thanh V bị tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù cho bị cáo theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự.

[6] Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo khai nhận nguồn ma túy bị cáo sử dụng được mua từ một người tên N1 nhưng bị cáo không biết rõ họ tên, năm sinh và địa chỉ cụ thể của N1. Do đó, chưa có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự của Nam và cũng không có cơ sở xem xét bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

[7] Đối với Nguyễn Quang T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đã bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Ngày 25/10/2018 khi Công an huyện Cai Lậy bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì anh T cũng có mặt ở nhà cùng với bị cáo nhưng anh T không biết bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở xử lý hình sự đối với anh T.

Đối với anh Lê Quốc P, vào ngày 25/10/2018 anh P có đến nhà bị cáo mua ma túy nhưng chưa mua được thì bị lực lượng Công an mời lên làm việc nên không có cơ sở xem xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy của P.

[8] Vật chứng vụ án: 06 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại màu đỏ đen hiệu Viettel, 01 điện thoại màu vàng đen hiệu Xperia, 01 điện thoại màu tím hiệu Nokia, 01 điện thoại màu đỏ đen hiệu LG, 01 điện thoại màu hồng hiệu dopod 220, 01 điện thoại màu trắng hiệu BlackBerry; Tiền Việt Nam là 5.100.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, vật chứng này không liên quan đến vụ án và Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh của bị cáo là anh Trần Thanh D nhận thay, bị cáo cũng đồng ý và không yêu cầu gì. Việc Cơ quan điều tra trả tài sản cho bị cáo là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo gồm: Ba bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 190/1, 190/2, 190/3 ngày 29/10/2018 (mẫu sau giám định) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang; một túi màu xanh; một cây cân điện tử màu đen; một cái nỏ thủy tinh; một bì thư bằng giấy; 160 bịch nylon màu trắng được hàn kín có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một bao gồm: 61 bịch có kích thước 7,5 x 4,3 cm, 77 bịch có kích thước 4 x 1,5 cm, 05 bịch có kích thước 9,5 x 6 cm, 06 bịch có kích thước 2 x 1,6 cm, 03 bịch có kích thước 2,5 x 1,7 cm, 08 bịch có kích thước 3,5 x 1,6 cm; 01 bộ bình tự chế; hai ống hút nhọn có một đầu màu trắng xanh; 09 hột quẹt gas; 03 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cái bóp màu đen; 01 cái bàn chải chà chân màu xanh đậm không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử phạt bị cáo với mức án tương xứng hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo với mức án từ 8 đến 9 năm tù giam.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thanh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm g, o khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thanh V 08 (Tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 25/10/2018.

3. Về vật chứng vụ án:

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Ba bì thư được niêm phong ký hiệu vụ số 190/1, 190/2, 190/3 ngày 29/10/2018 (mẫu sau giám định) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang; một túi màu xanh; một cây cân điện tử màu đen; một cái nỏ thủy tinh; một bì thư bằng giấy; 160 bịch nylon màu trắng được hàn kín có khe bóp hở một đầu, có viền đỏ một bao gồm: 61 bịch có kích thước 7,5 x 4,3 cm, 77 bịch có kích thước 4 x 1,5 cm, 05 bịch có kích thước 9,5 x 6 cm, 06 bịch có kích thước 2 x 1,6 cm, 03 bịch có kích thước 2,5 x 1,7 cm, 08 bịch có kích thước 3,5 x 1,6 cm; 01 bộ bình tự chế; hai ống hút nhọn có một đầu màu trắng xanh; 09 hột quẹt gas; 03 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cái bóp màu đen; 01 cái bàn chải chà chân màu xanh đậm.

Toàn bộ vật chứng trên được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Võ Thanh V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo V, anh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T, anh P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự Phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về