Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 193/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Thái Thị Thùy T, sinh năm 1983; địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Duy Xuân T, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Thái Thị Thùy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thị Thùy T và ông Duy Xuân T tự nguyện tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý, tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn ngày 11/5/2006 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T (Nay là huyện B), tỉnh Bình Dương.

Sau khi cưới, bà T và ông T sinh sống tại ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn và bà T bỏ về nhà cha mẹ ruột tại ấp 3, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước sinh sống. Từ năm 2013 cho đến nay, giữa bà T và ông T không còn sống chung với nhau, không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà T và ông T có 02 con chung tên Duy Bảo T, sinh ngày 24/10/2004 và Duy Minh N, sinh ngày 03/3/2010. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, bà T yêu cầu Tòa án giao 02 con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bà T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Duy Xuân T trình bày:

Ông Duy Xuân T thống nhất với bà T về quá trình tìm hiểu, kết hôn, sống chung và có các con chung. Sau khi cưới, vợ chồng cùng sinh sống tại ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, thời gian đầu vợ chồng quan tâm, chăm sóc nhau. Từ đầu năm 2012, giữa ông T và bà T phát sinh nhiều mâu thuẫn. Từ năm 2013 cho đến nay, hai người không còn sống chung với nhau và cũng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Trước yêu cầu xin ly hôn của bà T thì ông T đồng ý do tình cảm không còn.

Về con chung: Ông T và bà T có 02 con chung tên Duy Bảo T, sinh ngày 24/10/2004 và Duy Minh N, sinh ngày 03/3/2010. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự chấp hành đúng các quy định của Tòa án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

Về tố tụng:

[1] Bà Thái Thị Thùy T có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Duy Xuân T. Hiện tại, ông T cư trú tại ấp 1, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bà Thái Thị Thùy T có đơn xin giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thị Thùy T và ông Duy Xuân T tự nguyện tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn ngày 11/5/2006 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Bà Thái Thị Thùy T và ông Duy Xuân T cùng cho rằng quá trình chung sống đến đầu năm 2012 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, giữa hai người không có biện pháp hàn gắn tình cảm và kể từ năm 2013 đã không còn chung sống với nhau.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy giữa bà T và ông T có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không có biện pháp để hàn gắn tình cảm, hai người không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Bà T có đơn xin giải quyết vắng mặt và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại phiên tòa, ông T xác định không còn tình cảm với bà T. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại biên bản xác minh ngày 10/01/2019 thể hiện: Bà T và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn và từ năm 2013 đến nay đã không còn sống chung với nhau. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của bà T là có cơ sở, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[6] Về con chung: Bà T và ông T có 02 con chung tên Duy Bảo T, sinh ngày 24/10/2004 và Duy Minh N, sinh ngày 03/3/2010. Bà T và ông T thống nhất giao 02 con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bà T không cấp dưỡng nuôi con. Xét sự thỏa thuận giữa các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức của xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bà Thái Thị Thùy T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thái Thị Thùy T đối với ông Duy Xuân T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thị Thùy T được ly hôn với ông Duy Xuân T.

2. Về con chung: Ông Duy Xuân T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung tên Duy Bảo T, sinh ngày 24/10/2004 và Duy Minh N, sinh ngày 03/3/2010. Bà Thái Thị Thùy T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Thái Thị Thùy T và ông Duy Xuân T đều có quyền, nghĩa vụ đối với con chung. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi có đơn yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Thái Thị Thùy T phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0030337 ngày 29/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 29/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về