TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 20 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 171/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2018, về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019, quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lương Thị Hải Y, sinh năm 1991
- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1988.
Đều trú tại: thôn L, xã Q , huyện K, tỉnh Thái Bình.
( Chị Y xin vắng mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa lần 2)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Lương Thị Hải Y có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:
- Về quan hệ hôn nhân:
Chị và anh T tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình vào ngày 29/8/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống khoảng 01 năm tại Hà Nội, sau đó chị về quê sống ở nhà mẹ đẻ chị tại thôn L, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, còn anh T đi làm ở Hà Nội, tình cảm vợ chồng hạnh phúc. Đến đầu năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không thể hòa hợp được mặc dù đã được sự can thiệp khuyên giải của hai bên gia đình. Nay chị tự xét thấy không còn phù hợp và không thể ở với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh T.
- Về quan hệ con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Trần Bảo Ch - sinh ngày 12/3/2012 và Trần Việt Kh - sinh ngày 19/02/2013. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng để cho con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.
* Bị đơn là anh Trần Văn T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án.
* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:
- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q ngày 04/01/2019 cán bộ đại diện cho Đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Anh T và chị Y có hộ khẩu thường trú tại xã Q . Anh T và chị Y kết hôn tại xã Q vào ngày 29/8/2011, anh T là người theo đạo Thiên Chúa, chị Y là người bên lương. Sau kết hôn anh chị thường chung sống tại nhà mẹ đẻ chị Y . Anh T và chị Y đều lao động tự do, anh T làm xây dựng, chị Y từng làm ở một số công ty. Mâu thuẫn giữa vợ chồng anhT và chị Y địa phương không nắm được. Quan điểm của địa phương là nếu mâu thuẫn chưa trầm trọng thì Tòa án hòa giải để anh chị ấy đoàn tụ, nhưng nếu chị Y cứ cương quyết xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Về con chung của anh T và chị Y Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản: Địa phương chỉ nghe được thông tin là vợ chồng anh T xây nhà ở tại đất nhà bố mẹ anh T .
- Tòa án lấy lời khai của bà Trương Thị Ng là mẹ đẻ của chị Y , bà Ng cho biết: Thời gian anh T và chị Y ở nhà bà thì vui vẻ hòa thuận hạnh phúc, nhưng từ khi vợ chồng anh chị ấy về bên nhà mẹ đẻ để xây nhà trên đất của bố mẹ anh ấy thì anh T hay nghi ngờ vợ không chung thủy, ghen tuông, đánh đập vợ, có lần bóp cổ vợ nhưng không để lại thương tích gì. Bà đã động viên chị Y đoàn tụ nhưng chị Y nói không thể chung sống được với anh T nữa. Về con chung của anh T và chị Y hiện nay cháu Ch đang ở với chị Y, cháu Kh đang ở với anh T.
Về tài sản: Anh T và chị Y có xây ngôi nhà trên đất của bố mẹ anh T, ngoài ra còn có 01 chiếc xe máy chị Y đang sử dụng. Về nợ: vợ chồng anh T còn nhờ bà vay hộ 50.000.000đ và vay của bà 10.000.000đ nhưng bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
- Tòa án lấy lời khai của bà Chu Thị H là mẹ đẻ của anh T, bà H cho biết: Thỉnh thoảng vợ chồng anh T có xảy ra xô xát, có lần anh T đánh chị Y. Lý do xô xát là do chị Y không chung thủy. Anh T và chị Y ly thân từ tháng 5/2018. Anh T hiện nay đi làm tự do ở Hà Nội. Con chung của anh T và chị Y có hai con, anh T đang nuôi con Kh, chị Y đang nuôi con Ch . Về tài sản chung, và nợ chung của anh T và chị Y không có, nhà mới xây trên đất nhà bà là do bà tự xây.
* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật:
Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Do vợ chồng đã sống ly thân 07 tháng, không còn quan tâm đến nhau nữa nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Y được ly hôn anh T; Về con chung: Do anh T thường đi làm xa nhà, không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con cái nên cần thiết giao hai con chung cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho các cháu; Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị Y phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:
[I] Về pháp luật tố tụng:
[1] Bị đơn là anh Trần Văn T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, vẫn sinh sống ở địa phương, làm nghề xây dựng tự do, nhưng không đến Tòa để tham gia tố tụng. Tòa án đã tiến hành giao cho thân nhân của anh T thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng. Ngày 29/01/2019 chị Y có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt là lần thứ 2. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Y và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án chỉ có nguyên đơn và bị đơn, họ đều vắng mặt nên phiên tòa được tiến hành theo thủ tục quy định tại điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Q và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của nguyên đơn, bị đơn vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.
[II] Về pháp luật nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân:
Quan hệ hôn nhân của chị Y và anh T có giấy chứng nhận kết hôn, đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng không được hạnh phúc do không tin tưởng nhau trong quan hệ vợ chồng, có lần xô xát anh T đã đánh chị Y . Đến nay chị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nữa.
Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa chị Y và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị Y được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về quan hệ con chung: Nên giao cho chị Y trực tiếp nuôi cả 02 con là Trần Bảo Ch - sinh ngày 12/3/2012 và Trần Việt Kh - sinh ngày 19/02/2013 vì anh T thường đi làm xa nhà để con cho bà nội trông nom. Như vậy là phù hợp với với quy định tại điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con là sự tự nguyện, mặt khác anh T không có ý kiến gì, nên cần được chấp nhận.
[3] Về tài sản chung: Vì chị Y không yêu cầu giải quyết về tài sản chung, anh T không có lời khai, nên Tòa án không đặt ra giải quyết.
[4] Về án phí: Chị Y phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lương Thị Hải Y được ly hôn anh Trần Văn T.
2. Về con chung:
- Giao cho chị Y trực tiếp nuôi cả 02 con là Trần Bảo Ch - sinh ngày12/3/2012 và Trần Việt Kh - sinh ngày 19/02/2013. Chấp nhận việc chị Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.
- Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị Y đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001183 ngày 11/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị Y đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 20/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 04/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về