Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 18/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 18/02/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 442/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/12/2018 về việc tranh chấp hôn nhân gia đình; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐTS-HNGĐ ngày 17/01/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 11/2019/QĐ- HNGĐ ngày 01/02/2019 giữa:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị L, sinh năm 1995

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang. ( Có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn S, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

+ Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phan Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn M có đăng ký kết hôn vào ngày 9/05/2013 tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Bắc Giang, trước khi cưới vợ chồng được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 9/2013 vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, có nhiều bất đồng trong cuộc sống, chị đã bỏ về nhà bố mẹ để sinh sống từ tháng 9/2013 cho đến nay, vợ chồng ly thân từ ngày đó và không quan tâm đến nhau. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh M.

- Về con chung: Không có.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhiều lần nhưng anh M không có mặt và không có bản tự khai nộp cho Tòa án

+ Tòa án có làm việc với ông Nguyễn Văn M là bố để anh Nguyễn Văn M thì được cung cấp thông tin: Tháng 5 năm 2013 ông có tổ chức lễ cưới cho anh M, sau khi kết hôn chị L về gia đình ông sinh sống, tuy nhiên chị L ở được 03 tháng thì bỏ đi và không về nhà ông nữa, chị L và anh M đã sống ly thân từ đó đến nay, việc mâu thuẫn giữa chị L và anh M như thế nào ông không nắm được, nay chị L xin ly hôn ông để vợ chồng chị L, anh M quyết định vì gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng chị L, anh M không thể hòa hợp và không thể tiếp tục chung sống được nữa. Hiện nay anh M đi làm vài ngày mới về nhà, các văn bản Tòa án gửi ông đều đưa lại cho anh M và có bảo anh M xuống Tòa án làm việc, còn anh M có đến Tòa án làm việc hay không là do anh M, nếu anh M không đến Tòa án làm việc thì đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, do anh M vắng mặt nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa ngày 01/02/2018 anh M vắng mặt, Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào ngày 18/02/2019.

Tại phiên tòa hôm nay chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa hôm nay anh M vắng mặt lần 2 không có lý do, Tòa án xét xử vắng mặt anh M.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. 

Về yêu cầu xin ly hôn của chị L: Chị Phan Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn M.

Về con chung, tài sản chung: Không có.

Về án phí: Chị L chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa. Sau khi thảo luận, nghị án Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Đơn khởi kiện của chị Phan Thị L cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2].Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Anh M có hộ khẩu tại xã N. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Anh M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh M theo quy định tại điều Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị L và anh Nguyễn Văn M đã đăng ký kết hôn vào ngày 9/05/2013 tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Bắc Giang. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh M là hợp pháp. 

Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử thấy rằng: Lời khai của chị L về việc vợ chồng có mâu thuẫn và đã sống ly thân từ lâu phù lời trình bày của ông Nguyễn Văn M ( bố anh M) về việc chị L đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 9/2013 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy trong thời gian sống chung vợ chồng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, vợ chồng không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ mọi việc, không giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ ngay sau ngày cưới cho đến nay, việc này trái với các quy định tại các điều 19, 21 luật hôn nhân gia đình năm 2014. Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn thì thấy rằng: Tình trạng của vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần cho chị L được ly hôn anh M.

[5]. Về con chung: Vợ chồng không có con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết..

[6].Về tài sản chung: Không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết..

[7]. Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[8]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

[1]. Về quan hệ vợ chồng: Chị Phan Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn M.

[2]. Án phí: Chị Phan Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị L đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0006852 ngày 19/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang. Xác nhận chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị L có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh M vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc niêm yết.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 18/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về