Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 143/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXX-ST ngày 13 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kiều T, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Đường Â, Phường 3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Phát Đ, sinh năm 1993.

Địa chỉ: ấp B, xã T, thị xã K, tỉnh Long An.

Bà T có mặt, ông Đ vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của bà Lê Thị Kiều T và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Yêu cầu của nguyên đơn - Bà Lê Thị Kiều T trình bày: Vào năm 2011, bà T và ông Đ yêu thương nhau và được sự đồng ý của hai bên gia đình nên có tổ chức lễ cưới. Ngày 30 tháng 01 năm 2013, ông bà Đ ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện M (nay là thị xã K), tỉnh Long An. Ông Đ và bà T tự nguyện kết hôn, không bị ai ép buộc. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mỗi lần say rượu về là ông Đ kiếm chuyện chửi bới, đánh đập bà T nhiều lần. Bà T làm vợ thương chồng nên đã nhiều lần khuyên nhủ ông Đ sửa đổi để vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng ông Đ không sửa đổi được gì. Từ ngày 05 tháng 01 năm 2015 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa nên bà T xin ly hôn với ông Đ, trả lại tự do cho nhau; về con chung: Bà T xác định vợ chồng chung sống có 01 người con chung tên Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2013, giới tính nam. Khi ly hôn, bà T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đ đến tròn 18 tuổi. Bà T không yêu cầu ông Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đ vì bà T đủ điều kiện nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi nhận được hồ sơ khởi kiện của bà T, Tòa án nhân dân thị xã K tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Tòa án nhân dân thị xã K đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đã tống đạt hợp lệ cho ông Đ nhưng ông Đ không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các thông báo của Tòa án. Đồng thời, ông Đ cũng không gửi văn bản nêu ý kiến của ông Đ cho Tòa án biết về việc bà T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Đ. Do đó, các phiên hòa giải không thể tiến hành được theo quy định pháp luật nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, bị đơn là ông Đ có địa chỉ tại xã T, thị xã K, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của ông Đ tại phiên tòa: Ông Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ là phù hợp theo các Điều 177, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Từ tháng 01 năm 2015 đến nay, bà T và ông Đ đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông Đ đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T, xử cho bà T được ly hôn với ông Đ là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

 [4] Về con chung: Tại phiên tòa, bà T vẫn xin được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đ đến tròn 18 tuổi và không yêu cầu ông Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đ. Bởi vì, hiện tại bà T làm công nhân kiểm hàng, công việc ổn định, thu nhập trung bình được khoảng 8.000.000 đồng đến 9.000.000 đồng/tháng, nhà bà T gần trường học, tiện việc đưa đón con đi học. Đồng thời từ tháng 01 năm 2015 đến nay, ông Đ cũng không phụ giúp bà T nuôi con chung mà bà T vẫn tự nuôi dưỡng, chăm sóc con chung được đầy đủ về mọi mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T là tiếp tục giao cháu Đ cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi và không buộc ông Đ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Đ là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Áp dụng các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bà T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 177, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

các Điều 51, 55, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Lê Thị Kiều T, xử cho bà Lê Thị Kiều T được ly hôn với ông Nguyễn Phát Đ.

2. Về con chung:

Tiếp tục giao người con chung tên Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 18 tháng 10 năm 2013, giới tính nam cho bà Lê Thị Kiều T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi.

Ông Nguyễn Phát Đ không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Minh Đ.

Ông Nguyễn Phát Đ được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở ông Nguyễn Phát Đ thực hiện quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

 Vì lợi ích của con thì theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên thì Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Buộc bà Lê Thị Kiều T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0006999 ngày 11 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K. Bà Lê Thị Kiều T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống Đ hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về