Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 15/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 766/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 230/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

-  Nguyên đơn: Chị Ngô Thị H; địa chỉ: Thôn 5, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

-  Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T; địa chỉ: Thôn 5, xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 22 tháng 10 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ngô Thị H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 19 tháng 01 năm 2009. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung. Mặt khác, anh T mải chơi, cờ bạc, thiếu quan tâm chăm sóc gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau, tình cảm vợ chồng ngày càng thờ ơ lạnh nhạt. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Chị H và anh T đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Ngô Thị H khai: Chị và anh Nguyễn Văn T có 02 con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009, Nguyễn Thị Thu H sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013. Hiện các con chung đang ở cùng với anh T. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng để anh T tiếp tục nuôi dưỡng các con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Ngô Thị H trình bày để chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Ngô Thị H khai: Chị và anh Nguyễn Văn T có tài sản chung, nhưng để hai bên tự thỏa thuận phân chia nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/11/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T thừa nhận lời khai của chị Ngô Thị H về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T có mải chơi thiếu quan tâm chăm sóc gia đình nên vợ chồng có xảy ra xích mích cãi mắng nhau. Nay, chị H có đơn xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn vì lý do mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn T khai anh và chị Ngô Thị H có 02 con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009 và Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013. Hiện hai con đang ở cùng với anh T. Trường hợp ly hôn, anh T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn T khai: Anh và chị H có tài sản chung, nhưng để hai bên tự thỏa thuận phân chia nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã thực hiện tương đối đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H và anh T được ly hôn. Về con chung: Chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T có 02 con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009 và Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013. Khi ly hôn, chị H và anh T đều thống nhất để anh T được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho anh Nguyễn Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Thu H cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Ngô Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh T vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T.

 [2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T được xác lập năm 2009 là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt nên vợ chồng xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn, vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị H và anh T được ly hôn.

 [3] Về con chung: Chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T có 02 con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009, Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013. Hiện anh T đang nuôi cả hai con. Khi ly hôn, anh T và chị H đều thống nhất để anh T tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi thì cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, anh T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Anh T có công việc và thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con. Mặt khác, cháu Nguyễn Anh T có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy giao cho anh Nguyễn Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009 và Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T thống nhất thỏa thuận tự giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

 [5] Về tài sản chung: Chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T thống nhất khai có tài sản chung, nhưng tự thỏa thuận phân chia và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Ngô Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Nguyễn Anh T, sinh ngày 28 tháng 10 năm 2009 và Nguyễn Thị Thu H, sinh ngày 10 tháng 6 năm 2013 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000043 ngày 25 tháng 10 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Ngô Thị H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Chị Ngô Thị H, anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 15/01/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về