Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số:18/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 02 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn Bái U, xã Liên B, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Vũ Anh K, sinh năm 1992 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn Hoài Tr, xã Liên B, huyện Tiên D, Bắc Ninh;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/10/2018 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Vũ Anh K vào năm 2015. Trước khi kết hôn anh chị có tìm hiểu và đã có quan hệ tình dục trước hôn nhân nên đã có 01 con chung là Vũ Anh Quốc, sinh ngày 30/01/2015. Sau khi sinh cháu Quốc được 03 tháng chị H và anh K tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã Liên B, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình hai bên tìm hiểu rồi đăng ký kết hôn đều hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn chị về chung sống với anh K ngay. Vợ chồng chung sống cùng gia đình anh K tại thôn Hoài Trung, xã Liên Bão, huyện Tiên Du. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K chơi bời không quan tâm đến vợ con, thường xuyên vắng nhà qua đêm. Chị và gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ anh K nhưng anh K không thay đổi, khoảng một năm gần đây anh K sống chung với người phụ nữ khác nên rất ít về nhà. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ tháng 01/2018. Vợ chồng ly thân từ đó. Đến nay, chị không còn tình cảm với anh K, chị không thể chung sống tiếp tục với anh K. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh K.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Vũ Anh Quốc, sinh ngày 30/01/2015 và Vũ Anh Đại, sinh ngày 06/4/2017;

Hiện tại chị đang nuôi cháu Đại, anh K nuôi cháu Quốc. Vợ chồng ly hôn, chị đề nghị giữ nguyên hiện trạng nuôi con, vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu giải quyết.

Tài sản chung, công nợ: Chị xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu giải quyết.

Phía anh Vũ Anh K có lời khai trình bày: Anh xác nhận lời trình bày của chị H về thời gian kết hôn, quá trình chung sống cùng nhau và nguyên nhân mâu thuẫn. Do không khuyên bảo được anh nên chị H đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống từ tháng 01/2018. Vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian vợ chồng ly thân thỉnh thoảng anh có đến thăm con và thuyết phục, xin lỗi để chị H về chung sống, vợ chồng đoàn tụ nhưng chị H không chấp nhận. Anh xác định anh vẫn còn tình cảm với chị H nên không đồng ý ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như chị H đã trình bày. Hiện anh đang nuôi cháu Quốc, chị H nuôi cháu Đại. Nếu phải ly hôn anh đồng ý giữ nguyên hiện trạng nuôi con, không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, công nợ: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đối với anh K: Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho anh quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các quyết định khác của tòa án nhưng đến nay anh K vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của pháp luật;

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H; Xử cho chị H được ly hôn anh K.

Về con chung: Đề nghị giao con Vũ Anh Quốc, sinh ngày 30/01/2015 cho anh K; giao con Vũ Anh Đại, sinh ngày 06/4/2017 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc.

Việc cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung, công nợ: Đương sự không yêu cầu nên không đề cập xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Anh K kết hôn với nhau năm 2015 đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định cuả pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh K chơi bời không có trách nhiệm với gia đình và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Chị H khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, anh K không muốn ly hôn nhưng không thay đổi tính cách và không có biện pháp tháo gỡ mâu thuẫn vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị H, xử cho chị được ly hôn với anh K là phù hợp.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung 

Vũ Anh Quốc, sinh ngày 30/01/2015

Vũ Anh Đại, sinh ngày 06/4/2017

Hiện anh K đang nuôi cháu Quốc, chị H nuôi cháu Đại.

Anh chị đều có quan điểm nếu vợ chồng ly hôn đề nghị giữ nguyên hiện trạng nuôi con; Xét thấy quan điểm của anh chị về con chung là phù hợp nên cần chấp nhận.

Việc cấp dưỡng nuôi con; Tài sản chung, công nợ: Đương sự không yêu cầu nên không đề cập xử lý.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 147, 227, 228, 239, 243, 247, 248, 249, 254, 260, 264 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Về quan hệ vợ chồng: Xử chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Anh K.

Về con chung: Giao con Vũ Anh Quốc, sinh ngày 30/01/2015 cho anh K; Giao con Vũ Anh Đại, sinh ngày 06/4/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu giải quyết.

Chị H và anh K được quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000đ tại biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2015/0000554 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh;

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận kết quả bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về