Bản án 04/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 04/2019/DS-ST NGÀY 15/01/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2019. Tại Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2018/TLST-DS ngày 05 tháng 6 năm 2018 về việc tranh chấp họp đồng vay tài sản. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1036/2018/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Phan Thanh H, sinh năm 1989. 

Địa chỉ: Số xxx, Khóm y, phường x, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long.

Bị đơn:1. Đào C, sinh năm 1935.

2. Thi K, sinh năm 1938

3. Đào T, sinh năm 1963

4. Đào Thị H, sinh năm 1973

Cùng địa chỉ: Số xxy, CT, phường x, thành phố VL, tỉnh Vĩnh Long.(Các bị đơn điều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/4/2018 và các tài liệu chứng cứ trong quá trình xét xử nguyên đơn Phan Thanh H trình bày ngày 23/12/2017 anh có cho ông Đào C, bà Thi K, anh Đào T và chị Đào Thị H vay số tiền 63.000.000đ thời gian vay là 06 tháng tính từ ngày 29/11/2017 mỗi ngày các bị đơn phải trả cho anh số tiền vốn và lãi là 350.000đ đến khi hết nợ với lãi suất là 3%/tháng có làm hợp đồng công chứng tại phòng công chứng A ngày 23/12/2017. Sau khi ký họp đồng các bị đơn có trả được 30 ngày tính từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/12/2017 mỗi ngày là 330.000đ thì ngưng không thực hiện theo thoả thuận trong hợp đồng. Nay anh yêu cầu các bị đơn trả số tiền vốn là 53.100.000đ và tiền lãi tính 3%/tháng tính từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/4/2018 số tiền là 8.262.000đ. Đến ngày 18/9/2018 anh H có bảng tường trình đề nghị tính lãi suất với mức 0.75%/tháng tính từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/9/2018 là 4.056.750đ và yêu cầu tính lãi tiếp tục đến khi giải quyết xong vụ việc.

Bị đơn ông Đào C, bà Thi K trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Ông C, bà K thừa nhận có ký tên vào hợp đồng vay tiền nhưng hiện nay do ông bà đã già không có khả năng thanh toán số tiền nợ nên ông bà đề nghị để cho Đào Thị H trả toàn bộ số nợ trên. Ông bà cũng đề nghị toà án miễn tiền án phí cho ông bà do ông bà thuộc diện người cao tuổi.

Tại phiên tòa, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt không có ý kiến.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện và tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không có mặt để tham gia tố tụng là vi phạm khoản 16 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử.

Áp dụng các Điều: 26,35,39,147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 463,466,468 Bộ luật dân sự 2015;

Điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 củ Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hôi về án phí, lệ phí Tòa án tuyên xử buộc các bị đơn ông Đào C, bà Thi K, anh Đào T và chị Đào Thị H có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Phan Thanh H số tiền vốn là 53.100.000đ và tiền lãi tính 0.75%/tháng thời gian tính lãi từ ngày 01/01/2018 đến ngày 30/12/2018 là 12 tháng số tiền là 4.779.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụ tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đây là vụ án dân sự tranh chấp "Hợp đồng vay tài sản" được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 và bên bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 466 Bô luật dân sự năm 2015, về lãi suất hai bên thỏa thuận có cao hơn lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, nhưng trong quá trình thực hiện thì bị đơn chỉ thanh toán được 01 tháng từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/12/2017, trong quá trình hòa giải và tại phiên Tòa nguyên đơn yêu cầu phía bị đơn trả lại số tiền còn lại là 53.100.000 đồng và lãi tính theo mức lãi suất 0,75%/ tháng từ ngày 01/12/2017 đến ngày 30/12/2018 là 4.779.000đ và tính lãi tiếp theo khi giải quyết xong vụ án là có căn cứ đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[2] Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long được quy định tại các Điều 26, 35, và 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn vắng mặt tại các phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tại phiên Tòa sơ thẩm, căn cứ vào khoản 16, Điều 70, khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn tại phiên Tòa về việc yêu cầu trả số tiền vốn 53.100.000 đồng yêu cầu tính lãi số tiền trên từ ngày 01/01/2018 đến 30/12/2018 là 12 tháng là đúng với Điều 468, nên được tính như sau: 53.100.000 đồng x 0,75% x 12 = 4.779.000 đồng tiền lãi tính đến ngày xét xử vậy buộc các bị đơn phải trả cho nguyên đơn lãi vốn là 57.879.000 đồng.(Năm mươi bảy triệu tám trăm bảy mươi chín ngàn đồng)

Quan điểm của Viện Kiểm Sát tại phiên tòa là phù hợp với hội đồng xét xử nên được ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều: 463, 466 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 26, 35, 39 và khoản 16 Điều 70, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 củ Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hôi về án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Nôi dung: Chấp nhận yêu cầu của anh Phan Thanh H buộc ông Đào C, bà Thi K, anh Đào T, chị Đào Thị H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho anh H số tiền vay còn nợ và tiền lãi là 57.879.000 đồng.(Năm mươi bảy triệu tám trăm bảy mươi chín ngàn đồng)

2. Về án phí: Miễn án phí cho ông Đào C, bà Thi K do người cao tuổi buộc anh Đào T, chị Đào Thị H mỗi người phải nộp: 1.456.500đ (Một triệu bốn trăm năm mươi sáu ngàn năm trăm đồng) tiền án phí dân sư sơ thẩm. Hoàn trả cho anh Phan Thanh H 1.534.000 đồng (Một triệu năm trăm ba mươi bốn ngàn đồng) tiền tạm ứng theo biên lai thu số 0003333 ngày 29/5/2018 của chi Cục thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Long.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, hằng tháng bên phải thi hành án còn phải chụi khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bô luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận tống đạt trực tiếp hoặc niêm yết bản án để xin Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/DS-ST ngày 15/01/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:04/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về