Bản án 04/2018/HSST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ B, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 09/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09-02-2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày 23/01/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXX-HS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:

1/Họ và tên: NGUYỄN VĂN ĐIỆP H - sinh 14/8/20a00 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới T: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th (đã chết); và bà Nguyễn Thị V; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự: tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 02/QĐ/XPVPHC ngày 05/9/2017 của Công an xã Ea BI xử phạt Nguyễn Văn Điệp H 1.500.000đ về hành vi “trộm cắp tài sản”; Bị cáo Đ áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

2/Họ và tên: NGUYỄN VIẾT T - sinh ngày 09/9/2000 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới T: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Viết T1 và bà Cao Thị Th; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án; Không; tiền sự: 01 tiền sự: tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ/XPVPHC ngày 05/9/2017 của Công an xã Ea BI xử phạt Nguyễn Viết T 1.500.000đ về hành vi “trộm cắp tài sản”; Bị cáo Đ áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú hiện tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Viết T: Ông Nguyễn Viết T1 là bố ruột của bị cáo, sinh năm: 1966, trú tại: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn Điệp H: Bà Nguyễn Thị Q là bà ngoại của bị cáo, sinh năm 1952; trú tại: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt)

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và bị cáo Nguyễn Viết T; Bà Trần Thị Bích T2 - Luật sư văn phòng luật sư Minh Tr - thuộc đoàn luật sư tỉnh Đăk Lăk (Có mặt)

- Người bị hại: Ông Nguyễn Minh D, sinh 1966; trú tại: Thôn Tân Hòa, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1952; trú tại: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt)

2/Anh Lê Vạn Ch, sinh năm 1987; trú tại: Thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt)

3/Ông Khưu Thành Đ, sinh năm 1976; trú tại: xã Ea H, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T cùng trú tại thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B là bạn bè với nhau. Do lười lao động, cần tiền chơi game và tiêu xài cá nhân nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài và rủ T cùng đi trộm cắp tài sản thì được T đồng ý. Khoảng 24 giờ ngày 09/9/2017 sau khi đi uống cà phê và chơi game tại phường An L, thị xã B cả hai đi bộ về xã Ea BI để tìm nơi trộm cắp tài sản. Do đã thống nhất từ trước nên H và T đi bộ đến các rẫy cà phê có trồng xen cây sầu riêng có quả chuẩn bị thu hoạch để trộm cắp. Sau đó cả hai chui qua hàng rào vào rẫy cà phê có trồng xen cây sầu riêng của gia đình ông Nguyễn Minh D tại thôn Tân H, xã Ea BI lúc này khoảng 01 giờ ngày 10/9/2017, rồi lần lượt trèo lên 03 cây sầu riêng dùng tay hái được 20 trái sầu riêng thả xuống đất và nhặt dưới gốc 01 trái sầu riêng, tổng cộng đã hái được 21 trái sầu riêng. Sau đó cả hai lần lượt vận chuyển 21 trái sầu riêng ra ngoài phía bờ rào sát đường đi để cất giấu chờ mang đi tiêu thụ. Sau đó cả hai đi bộ đến trụ sở thôn TânT thì T ở lại, H đi bộ về nhà bà ngoại là bà Nguyễn Thị Q ở thôn TânT, xã Ea Bl, thị xã B lấy xe mô tô Sirius biển số 47C1-151.00 của anh Lê Vạn Ch là dượng của H mà H đã mượn về để ở nhà từ trước, rồi chạy xe xuống chở T, sau đó quay lại nhà bà Q đi vào bếp lấy 01 con dao cắt thịt, 01 bao xác rắn và chở T quay lại địa điểm cất giấu sầu riêng, H dừng xe ở phía trên đường nhựa, sau đó cả hai đi đến chỗ cất giấu sầu riêng rồi cùng nhau dùng dao cắt cuống 07 trái sầu riêng bỏ vào bao xác rắn khiêng lên xe chở đi tìm nơi tiêu thụ. Lúc này T điều khiển xe mô tô chở H đến địa điểm thu mua sầu riêng Như M tại ngã ba Ea H, xã Ea H, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk và gọi cửa. Khoảng 10 phút sau ông Khưu Thành Đ là chủ cơ sở thu mua sầu riêng ra mở cửa, thấy H và T ông Đ không nói gì, cả hai mang 07 trái sầu riêng vào phía trong bỏ lên cân được 26 kg rồi nói cho gửi lại và hỏi mượn 01 cái giỏ, lúc này ông Đ vẫn không nói gì nhưng chỉ tay về phía cái giỏ đồng ý cho H và T mượn. Sau đó H và T quay lại địa điểm cất giấu sầu riêng để tiếp tục mang đi bán. Trong lúc đang nhặt các trái sầu riêng còn lại vào giỏ thì bị ông D phát hiện, H và T đã để lại các trái sầu riêng và xe mô tô bỏ chạy. Chạy được một lúc thấy không có người đuổi theo nên cả hai quay lại xin lại xe mô tô nhưng không được ông D đồng ý và yêu cầu về trụ sở Công an xã Ea Bl, trên đường đi lợi dụng sơ hở của ông D, H đã bỏ chạy trốn cho đến ngày 10/10/2017 thì đến Công an thị xã B làm việc theo giấy triệu tập của Công an, còn T thì đưa về trụ sở Công an xã Ea BI làm việc.

Vật chứng vụ án Cơ quan điều tra thu giữ gồm: Thu của bị cáo Nguyễn Viết T 14 trái sầu riêng Đô Na có tổng trọng lượng 68 ký; 01 chiếc giỏ làm bằng nhựa kích thước (45x80)cm; 01 chiếc bao xác rắn màu trắng - xanh; 01 xe mô tô Hiệu Yamaha Sirius biển số 47C1-151.00 và 01 con dao loại dao cắt thịt dài 36cm, cán làm bằng gỗ dài 11cm, lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 25cm, rộng 5cm. Thu của ông Khưu Thành Đ 07 trái sầu riêng Đô Na, tổng trọng lượng 26 ký.

Bản kết luận định giá tài sản số: 310 ngày 27/9/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Buôn Hồ, kết luận: 21 trái sầu riêng Đô Na (loại sầu riêng Thái), trọng lượng 94 ký có giá trị 4.512.000đ (Bốn triệu năm trăm mười hai ngàn đồng).

Hiện tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại các tài sản: 21 trái sầu riêng Đô Na, trọng lượng 94 ký cho ông Nguyễn Minh D; 01 xe mô tô Hiệu Yamaha Sirius biển số 47C1-151.00 cho anh Lê Vạn Ch và 01 chiếc bao xác rắn màu trắng - xanh; 01 con dao loại dao cắt thịt dài 36cm, cán làm bằng gỗ dài 11cm, lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 25cm, rộng 5cm cho bà Nguyễn Thị Q là các chủ sở hữu và không liên quan đến vụ án.

Trong quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Minh D số tiền 5.000.000đ (mỗi bị cáo 2.500.000đ) khắc phục hậu quả, được ông D chấp nhận.

Trong vụ án này, anh Lê Vạn Ch là dượng bị cáo H cho H mượn xe mô tô biển số 47C1-151.00, nhưng không biết H sử dụng xe để làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã B không xử lý đối với anh Ch và đã trả lại xe mô tô là tài sản hợp pháp cho anh Ch là có căn cứ.

Đối với ông Khưu Thành Đ là chủ cơ sở thu mua nông sản Như M đã cho các bị cáo gửi lại 07 trái sầu riêng trộm cắp tại nhà và cho các bị cáo mượn giỏ để đi vận chuyển số sầu riêng trộm cắp còn lại, nhưng quá trình cho các bị cáo gửi số sầu riêng trộm cắp và mượn giỏ ông Đ không biết số sầu riêng là do trộm cắp mà có, đồng thời cũng không nói với các bị cáo là sẽ mua số sầu riêng do trộm cắp được nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với ông Đ là có căn cứ.

Bản cáo trạng số 03/KSĐT-HS, ngày 23/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H, Nguyễn Viết T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ giữ quyền công tố trình bày luận tội, tranh luận xác định: Do ý thức xem thường pháp luật Nhà nước, xem thường tài sản của người khác và động cơ tư lợi cá nhân. Nên vào khoảng 01 giờ ngày 10/9/2017, Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T đã có hành vi trộm cắp 21 trái sầu riêng Đô Na có trọng lượng 94 ký của gia đình ông Nguyễn Minh D tại thôn Tân Hòa, xã Ea Bl, thị xã B, có giá trị 4.512.000đ. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H, Nguyễn Viết T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; sửa đổi bổ sung năm 2009 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1 điều 91; khoản 1 điều 101 của Bộ luật hình sụ 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Điệp H từ 09 đến 12 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T từ 06 đến 09 tháng tù.

Về các biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc giỏ làm bằng nhựa kích thước (45x80)cm đã rách không còn giá trị sử dụng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T đã tác động gia đình tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Minh D là người bị hại số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) được ông D đồng ý nhận và không yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo. Trả lại 21 trái sầu riêng Đô Na, trọng lượng 94 ký cho ông Nguyễn Minh D; 01 xe mô tô Hiệu Yamaha Sirius biển số 47C1-151.00 cho anh Lê Vạn Ch và 01 chiếc bao xác rắn màu trắng - xanh; 01 con dao loại dao cắt thịt dài 36cm, cán làm bằng gỗ dài 11cm, lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 25cm, rộng 5cm cho bà Nguyễn Thị Q là các chủ sở hữu.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố và kết luận các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bị hại thừa nhận lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là đúng và người bị hại không yêu cầu gì thêm về phần trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng án treo.

Xét quan điểm của Luật sư bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa cho rằng các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho người bị hại, tại phiên tòa người bị hại cũng xin cho các bị cáo được hưởng án treo, bị cáo H có hoàn cảnh khó khăn phải ở với ngoại, bị cáo T bị bị cáo H rủ rê các bị cáo khi phạm tội chưa thành niên nên nhận thức còn hạn chế, vì vậy cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T khai nhận: Do ý thức xem thường pháp luật nhà nước, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, nên vào khoảng 01 giờ ngày 10/9/2017 tại rẫy cà phê trồng xen sầu riêng của nhà ông D thuộc thôn Tân H, xã Ea Bl, thị xã B, các bị cáo đã lén lút hái trộm sầu riêng của nhà ông D, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương nên Viện kiểm sát truy tố và kết luận các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình năm 1999 sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo: Xét thấy các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi để các bị cáo biết được rằng tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản của người khác đều bị pháp luật nghiêm trị, song do ý thức coi thường pháp luật, coi thường tài sản của người khác nên các bị cáo đã thực hiện hành vi trên vào khoảng 01 giờ ngày 10/9/2017 tại rẫy nhà ông D và lấy các tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông D. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa tội phạm trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho người bị hại, và phạm tội thuộc tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội gây thiệt hại không lớn, tại phiên tòa bị hại xin cho các bị cáo Đ hưởng án treo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự, vì vậy khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[6] Về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên bị cáo Nguyễn Văn Điệp H sinh ngày 14/8/2000 đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 17 tuổi 26 ngày; bị cáo Nguyễn Viết T sinh ngày 09/9/2000 đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 17 tuổi 01 ngày, do đó các bị cáo được hưởng các quy định về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 91, Điều 101 BLHS năm 2015.

[7] Với tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những quy định xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo với đời sống xã hội một thời gian nhất định là tương xứng với tính chất, hành vi các bị cáo thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm chung và riêng trong toàn xã hội. Tuy nhiên trong vụ án này có nhiều bị cáo tham gia, vai trò thực hiện hành vi phạm tội khác nhau, do đó cần áp dụng các hình phạt khác nhau đối với các bị cáo cho phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Nguyễn Văn Điệp H là người khởi xướng, bị cáo Nguyễn Viết T là người thực hành vì vậy cần phân hóa vai trò của từng bị cáo cho phù hợp với hành vi mà các bị cáo thực hiện. Vì vậy mức hình phạt đối với bị cáo H là cao hơn so với bị cáo T là phù hợp.

[8] Về bồi thường thiệt hại: Trong quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Minh D số sầu riêng bị hái tương đương số tiền 5.000.000đ (mỗi bị cáo 2.500.000đ) ông D không yêu cầu gì thêm, Hội đồng xét xử xét thấy việc thỏa thuận bồi thường là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 589 Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Các biện pháp tư pháp:

- Đối với 21 trái sầu riêng Đô Na, trọng lượng 94 ký; 01 chiếc bao xác rắn màu trắng - xanh; 01 con dao loại dao cắt thịt dài 36cm, cán làm bằng gỗ dài 11cm, lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 25cm, rộng 5cm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại cho ông Nguyễn Minh D, bà Nguyễn Thị Q là các chủ sở hữu hợp pháp theo quyết định xử lý vật chứng số 02 ngày 15/12/2017 phù hợp với khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 chiếc giỏ làm bằng nhựa kích thước (45x80)cm đã rách không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 47C1-151.00 H mượn của anh Lê Vạn Ch, nhưng anh Ch không biết H sử dụng xe để làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại xe mô tô là tài sản hợp pháp theo quyết định xử lý vật chứng số 02 ngày 15/12/2017 phù hợp với khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với ông Khưu Thành Đ là chủ cơ sở thu mua nông sản Như M đã cho các bị cáo gửi lại 07 trái sầu riêng trộm cắp tại nhà và cho các bị cáo mượn giỏ để đi vận chuyển số sầu riêng trộm cắp đồng thời cũng không nói với các bị cáo là sẽ mua số sầu riêng do trộm cắp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ không xử lý đối với ông Đ là có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H và Nguyễn Viết T phạm tội “Trộm cp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1 điều 91; khoản 1 điều 101 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Điệp H 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc bắt thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc ngày bắt thi hành án.

Các biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm a khoản 1 điều 47, khoản 1 điều 48 Bộ luật hình sự; khoản 1 điểm a, b; khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

- Ghi nhận việc gia đình các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H, Nguyễn Viết T thỏa thuận bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Minh D số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ đã trả lại 21 trái sầu riêng Đô Na, trọng lượng 94 ký cho ông Nguyễn Minh D; 01 xe mô tô Hiệu Yamaha Sirius biển số 47C1 - 151.00 cho anh Lê Vạn Ch và 01 chiếc bao xác rắn màu trắng - xanh; 01 con dao loại dao cắt thịt dài 36cm, cán làm bằng gỗ dài 11cm, lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 25cm, rộng 5cm cho bà Nguyễn Thị Q là các chủ sở hữu hợp pháp.

Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc giỏ làm bằng nhựa kích thước (45x80) cm đã rách.

(Đặc đim cụ th theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ quản lý).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Nguyễn Văn Điệp H, Nguyễn Viết T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bào chữa cho các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HSST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về