Bản án 04/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN 

BẢN ÁN 04/2018/HS-ST NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 8 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 09/2018/TLST - HS ngày 9 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 10/QĐXXST - HS ngày 23 tháng 02 năm 2018, đối với bị cáo:

Lê Sỹ Đ, sinh năm 1981 tại xóm D, xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ An,

Nơi cư trú: Xóm D, xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc Tịch: Việt Nam; con ông Lê Sỹ Đ, sinh năm 1956 và bà Đoàn Thị T, sinh năm 1957; vợ: Nguyễn Thị V, sinh năm 1979, con: Có 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/7/2017 đến ngày 03/8/2017 thì được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người giám hộ cho bị cáo: Ông Lê Sỹ Đ, sinh năm 1956, (Là bố đẻ bị cáo Đ), có mặt

Trú tại: Xóm D, xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ an.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn Hà - Trợ giúp viên pháp lý, Chi nhánh số 1 - Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An, có mặt

Người bị hại:

Anh Vũ Xuân L, sinh năm 1991, vắng mặt

Trú tại: Khối J, phường MH, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Đình Thân, sinh năm 1980, vắng mặt

Trú tại: Khối H, phường MH, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 25/7/2017, Lê Sỹ Đ đi bộ từ xã QB, huyện QL, tỉnh Nghệ An để về nhà, khi đi qua khu vực chợ MH thuộc khối J, phường MH, thị xã H, Lê Sỹ Đ phát hiện trước ki ốt ăn sáng đối diện với cổng vào chợ MH có dựng 01 chiếc xe mô tô YAMAHA, loại SIRIUS, biển kiểm soát 37L1 - 520.47 của anh Vũ Xuân L. Đ nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để đưa đi thay thế chiếc xe mô tô mà Đ đã cầm cố trước đó tại xã QB. Đ đi đến cạnh chiếc xe mô tô trên quan sát thấy không có người trông giữ, Đ lấy trong túi quần của mình ra 01 chiếc chìa khóa xe mô tô và đưa vào ổ khóa điện của xe mô tô biển kiểm soát 37L1 - 520.47 mở ổ khóa, thấy mở được khóa điện, Đ liền dắt bộ chiếc xe mô tô trên ra khỏi quán và điều khiển chạy lên đường quốc lộ 1A theo hướng vào thị trấn Cấu Giát, huyện Quỳnh Lưu. Lúc này, anh Vũ Xuân L đang bế con trong quán phát hiện có người lấy trộm chiếc xe mô tô của mình nên gọi điện thoại báo cho Công an phường MH đồng thời mượn xe mô tô của người dân đuổi theo, khi đuổi đến khu vực khối 8, phường MH thì anh L phát hiện Lê Sỹ Đ đang điều khiển xe mô tô của mình bỏ chạy nên đã hô hoán cùng người dân cạnh khu vực đó đã bắt giữ Đ cùng tang vật là chiếc xe mô tô. Cùng lúc này, Công an phường MH có mặt tại đấy đưa Đ về trụ sở Công an phường MH lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang. Cùng ngày Công an phường MH đã chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hoàng Mai điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 01/8/2017, Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã Hoàng Mai định giá 01 xe mô tô Yamaha, số loại Sirius, biển kiểm soát 37L1 - 520.47, có giá trị tại thời điểm Đ chiếm đoạt là 14.000.000đ.

Trong quá trình điều tra, xét thấy bị can Lê Sỹ Đ khi phạm tội có dấu hiệu của bệnh lý tâm thần cho nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần. Tại bản kết luận số 439/KLGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Lê Sỹ Đ bị bệnh chậm phát triển tâm thần nhẹ. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F70. Bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại bản cáo trạng số 12/VKS - HS, ngày 07 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố bị cáo Lê Sỹ Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Sỹ Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm h, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Lê Sỹ Đ 6 - 9 tháng cải tạo không giam giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được giao trả xong cho người bị hại và anh L không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Ông Phạm Văn Hà - Trợ giúp viên pháp lý, bào chữa cho bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; Đề nghị xử phạt bị cáo Đ mức hình phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ và không áp dụng biện pháp khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Ông Lê Sỹ Đ đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được cải tạo tại địa phương vì bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và nhất trí như đề nghị của ông Phạm Văn Hà - trợ giúp viên pháp lý.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Hoàng Mai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người giám hộ, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo, người bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ, xét thấy phù hợp về thời gian, địa điểm mà bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt; có đủ cơ sở kết luận ngày 25/7/2017, Lê Sỹ Đ phạm tội trộm cắp xe mô tô biển kiểm soát 37L1- 520.47 của anh Vũ Xuân L có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 14.000.000đ.

Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và điều khiển hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật nhưng do hám lợi nên đã nhất thời phạm tội.

Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Lê Sỹ Đ phạm tội: "Trộm cắp tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 BLHS (nay được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015) như cáo trạng quy kết là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội gây hoang mang, lo lắng trong cuộc sống bình thường của nhân dân. Bởi vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội về tội trộm cắp tài sản và giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tù, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện mới có đủ điều kiện giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình; Gia đình có ông nội là liệt sỹ và Đ thờ phụng; Ngoài ra, thực hiện hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội và Công văn số 04/TANDTC-PC, ngày 09/01/2018, do tội phạm xảy ra trước ngày 01/01/2018 nên căn cứ xử phạt bị cáo theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Do đó, bị cáo có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ niềm tin để bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[4] Bị cáo bị phạt cải tạo không giam giữ nhưng thuộc trường hợp đối tượng bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, được Nhà nước trợ cấp hàng tháng nên không áp dụng khấu trừ thu nhập hàng tháng.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được giao trả xong cho người bị hại và anh L không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138, điểm h, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.

Tuyên bố bị cáo Lê Sỹ Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt: Bị cáo Lê Sỹ Đ 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ; nhưng được trừ 27 ngày (Do bị tạm giữ từ ngày 25/7/2017 đến ngày 03/8/2017 là 9 ngày x 3 = 27 ngày cải tạo không giam giữ).

Thời hạn cải tạo không giam giữ của bị cáo được tính từ ngày Cơ quan tổ chức được giao giám sát bị cáo nhân được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lê Sỹ Đ cho UBND xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Lê Sỹ Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về