Bản án 04/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TỈNH

BẢN ÁN 04/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, vào hồi 13 giờ 45 phút, ngày 06 tháng 02 năm 2018 tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2018/TLST-HS ngày 12/01/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/HSST ngày 25/01/2018  đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày 26/6/1998: Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố T,  Phường K, Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Phan Văn B, sinh năm 1970; nghề nghiệp: Làm ruộng; trú tại: xã K, huyện P, tỉnh Đắk Lắk. Con bà: Lê Thị H, sinh năm 1977; nghề nghiệp: Làm ruộng; trú tại: Phường K, Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh. Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bị cáo có 04 tiền án:

- Bị TAND thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội "Trộm cắp tài sản"   tại bản án HSST số 21/2014 ngày 30/9/ 2014 (đã chấp hành xong hình phạt).

- Bị TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án HSST số 69/2014 ngày 28/11/2014 (đã chấp hành xong hình phạt).

- Bị TAND Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh xủ phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án HSST số 39/ HSST /2016 ngày 28/6/2016 (đã chấp hành xong hình phạt).

- Bị TAND huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”tại bản án HSST số 27/HSST/2016 ngày 25/8/2016 đã chấp hành xong hình phạt).

Tiền sự : Không

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam công an Hà Tĩnh từ ngày 17/11/2017. Có mặt.

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị V, sinh năn 1974 (có đơn xin vắng mặt.)

Trú tại: Thôn B, Xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Giáo viên .

Người có quyền lợi ,nghĩa vụ liên quan

1.Ông Lê Văn T, sinh năm: 1974

Trú tại: Phường K, Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

2.Bà Lê Thị Hường, sinh năm: 1977

Trú tại: Phường K, Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 11/11/2017, Phan Văn D, sinh năm 1998, trú tại Phường K, Thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh điều kiển xe ô tô tải của nhà mình mang biển số kiểm soát 38C-054.83 đi từ K ra Vinh, tỉnh Nghệ An để mua thức ăn chăn nuôi gia súc. Do thiếu tiền tiêu xài nên Phan Văn D có ý định sẽ quan sát trên đường đi ra thấy có nhà nào sơ hở trong quản lý tài sản là trộm cắp. Đến khoảng 11 giờ trưa cùng ngày, Phan Văn D điều khiển xe ô tô đi đến địa phận Thôn B, Xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh thì thấy nhà chị Nguyễn Thị V (sinh năm 1974) nằm ở sát lề đường bên phải hướng đi ra V đang mở cửa, không có người trong nhà nên D dừng xe, đi thẳng vào trong nhà tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi qua ga ra trước sân D thấy có một chiếc xe mô tô hon da, nhãn hiệu Lead, màu nâu xanh, biển kiểm soát 38M1-202.81 dựng ở góc trái gara theo hướng nhìn từ ngoài vào. Quan sát thấy trong nhà không có ai nên D đi thẳng vào phòng khách để tìm kiếm tài sản. Khi thấy có chiếc chìa khoá xe mô tô để trên bàn. D cầm chìa khoá đi ra gara , mở cốp xe mô tô thấy trong cốp xe mô tô có một cái ví da màu hồng, hình chữ nhật có khoá kéo; D mở ví ra thấy trong ví có tiền Việt Nam đồng nên đã lấy tất cả bỏ vào túi quần bên phải rồi bỏ lại chiếc ví vào cốp xe. Tiếp đó, D lấy một số giấy tờ cá nhân của chị V để trong cốp xe rồi bỏ vào phía túi trong áo khoác đang mặc. Sau khi lấy xong tiền và những giấy tờ nêu trên, Phan Văn D nhanh chóng đi ra xe lên xe ô tô và lấy số tiền vừa trộm được ra kiểm tra thấy được 450.000 đồng và các giấy tờ gồm: 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô 38M1-202.81: 01 giấy phép lái xe, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe; 01 sổ bảo hành của công ty Hon da Việt Nam, các loại giấy tờ trên đều mang tên Nguyễn Thị V. Sau khi kiểm tra xong Phan Văn D tiếp tục điều khiển xe ô tô đi ra Vinh. Đi được khoảng 400 m thì D vứt toàn bộ giấy tờ trên của chị V xuống bên lề đường, còn số tiền 450.000 đồng thì D đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản Cáo trạng số 03/ CTr-KSĐT ngày 11/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà đã truy tố bị cáo Phan Văn D về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND huyện Thạch Hà vẫn giữ nguyên cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX xét xử bị cáo Phan Văn D mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”  theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và buộc bị cáo phải nộp án phí theo qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và thừa nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát là đúng.

Ý kiến của người bị hại chị Nguyễn Thị V không có yêu cầu gì thêm về đền bù dân sự mà đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho Phan Văn D.

Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T và bà Lê Thị H tại phiên toà đều thống nhất như bản khai có trong hồ sơ không có ý kiến gì bổ sung thêm.

Bị cáo D nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi liên quan, vật chứng vụ án thu được và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đầy đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 11 giờ trưa ngày 11/11/2017 bị cáo Phan Văn D đã lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản đã lén lút chiếm đoạt 450.000 đồng và một số giấy tờ tuỳ thân của chị Nguyễn Thị V trú tại Thôn B, Xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Bị cáo D trộm cắp tài sản trong vụ án này chưa đến 2.000.000 đồng nhưng vẫn phải bị truy tố vì bị cáo mới bị TAND huyện C, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án HSST số 27/HSST/2016 ngày 25/8/2016 đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Bị cáo D có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo Phan Văn D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an ninh, an toàn xã hội gây bất bình lo lắng cho quần chúng nhân dân và đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo Phan Văn D có 04 tiền án, mới chấp hành xong hình phạt tù lại tiếp tục phạm tội cần phải có hình phạt nghiêm khắc.

[4 ]. Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: không

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Phan Văn D được hưởng tình tiết tự nguyện bồi thường thiệt hại quy định tại điểm b, thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặt điểm nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Bên cạnh đó bị cáo cũng được hưởng tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù có giảm nhẹ đi bao nhiêu chăng nữa thì HĐXX cũng cần lên cho bị cáo Phan Văn D một mức án 09 đến 12 tháng tù và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là cần thiết.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra mẹ bị cáo bà Lê Thị H đã thoả thuận và bồi thường cho chị Nguyễn Thị V số tiền 450.000đ và chị V đã nhận đầy đủ các giấy tờ cá nhân, chị V không yêu cầu gì thêm nên HĐXX miễn xem xét. Bà Lê Thị H không yêu cầu bị cáo D trả lại số tiền 450.000đ nên Hội đồng xét xử miễn xem xét. Ông Lê Văn T đã nhận lại tài sản và các giấy tờ cũng không yêu cầu gì nên miễn xem xét.

[8]. Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Thạch Hà đã trả lại cho các chủ sở hữu: Chị Nguyễn Thị V 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe, 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe, 01 sổ bảo hành xe mô tô của công ty hon đa Việt Nam; Ông Lê Văn T 01 xe ô tô nhãn hiệu THACO loại xe tải sơn màu trắng, có BSKS 38C-054.83, 01 giấy biên nhận giữa bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp của xe mô tô mang tên Lê Văn T đúng quy định của pháp luật nên HĐXX miễn xét.

[9]. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn D phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Tuyên bố bị cáo Phan Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Phan Văn D 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2017.

[2]. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thơi hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về