Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 20/03/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN  HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2017/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2017, về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H;

Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Bị đơn: Anh Châu Tấn P;

Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 7 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh H đều trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Châu Tấn P tự nguyện tổ chức lễ cưới với nhau vào tháng 01 năm 2007. Trước khi đám cưới, chị và anh P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng và được Ủy ban nhân dân xã này cấp giấy chứng nhận kết hôn số 65, Quyển số 01 ngày 29 tháng 12 năm 2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị về chung sống với gia đình bên chị. Thời gian đầu, vợ chồng chị chung sống rất hạnh phúc. Đến khoảng cuối năm 2014, vợ chồng chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh P đã nhiều lần hành hung, chửi mắng chị rất thô tục, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa và hiện nay vợ chồng chị đã ly thân. Nay chị cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Vợ chồng chị chung sống với nhau có được 01 đứa con chung, tên là Châu Ngọc Thảo N, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2009. Hiện nay, con đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị tự thỏa thuận với anh P, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng chị không có thiếu nợ ai, cũng như không có ai thiếu nợ vợ chồng chị nên chị cũng không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Châu Tn P:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho anh P biết, nhưng anh không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị H. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ anh P hai lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó đã thông báo cho anh biết kết quả phiên họp. Đồng thời, Tòa án cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Anh P cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và chị H đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, còn anh P vắng mặt không có lý do, không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với các yêu cầu khởi kiện của chị H, về việc xin ly hôn với anh P, yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận, còn về tài sản chung và nợ chung, trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Châu Tấn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử được quyền tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh P.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh P kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 65, Quyển số 01 ngày 29 tháng 12 năm 2006, nên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh P là hợp pháp. Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Như vậy, chị H có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy, sau khi kết hôn, chị H và anh P cũng có thời gian dài chung sống hạnh phúc bên nhau. Tuy nhiên, đến khoảng cuối năm 2014, hai người bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh P đã nhiều lần hành hung và có lời lẽ thô tục xúc phạm chị H, làm cho cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Tòa án đã triệu tập anh P nhiều lần để hòa giải, động viên hàn gắn, đoàn tụ nhưng anh đều không đến, chứng tỏ anh không có ý muốn tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này. Như vậy, chị H và anh P đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, đó là không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành i bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sng chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H ly hôn với anh P.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu của chị H xin được nuôi dưỡng con chung tên là Châu Ngọc Thảo N, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2009 đến tuổi trưởng thành, Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền, nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đi với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tui trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Đến ngày xét xử sơ thẩm, cháu N đã trên 07 tuổi; hiện nay cháu đang sống chung với chị H; trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu N thì cháu có nguyện vọng là muốn ở với chị H. Mặt khác, anh P cũng không có gửi cho Tòa án văn bản nêu ý kiến của mình về vấn đề này. Do đó, sau khi xem xét điều kiện kinh tế của chị H và ý kiến cháu N, đồng thời để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu N, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu N cho chị H nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Đáng lẽ ra, anh P là người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nhưng chị H không yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”. Như vậy, anh P là người không trực tiếp nuôi con nên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[7] Về tài sản chung: Chị H muốn tự thỏa thuận với anh P và không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về nợ chung: Không có và chị H không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử cũng không đặt ra xem xét.

[9] Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị H là có căn cứ.

[10] Về án phí sơ thẩm: Hội đồng xét xử thấy, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đều quy định: “Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn”. Như vậy, chị H là người xin ly hôn nên chị phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Châu Tấn P.

2. Về con chung:

- Giao cháu Châu Ngọc Thảo N, sinh ngày 30 tháng 10 năm 2009 cho chị Nguyễn Thị Thanh H nuôi dưỡng.

- Anh Châu Tấn P không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Châu Tấn P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thanh H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007303 ngày 06 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng và như vậy chị đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HNGĐ-ST ngày 20/03/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:04/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về