Bản án 03/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên; mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02 /2020/TLST-HS ngày 01/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03 /202020/QĐXXST-HS ngày 03/11/2020 đối với bị cáo:

Hờ A C; Sinh năm 1977 tại huyện M, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Bản T 2, xã NB, huyện NP, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hờ Vàng T (đã chết) và con bà: Giàng Thị Già (đã chết); Bị cáo có vợ là Sùng Thị Sai, sinh năm 1979; Bị cáo chưa có con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/7/2020 tại Công an huyện NP cho tới nay, có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thu Huyền – Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 00 phút, ngày 01/7/2020, Hờ A C đi bộ từ nhà đến khu vực bản T 1, xã NB, huyện NP với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây C gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 50 tuổi, C không quen biết. Qua trao đổi C đã mua C người đàn ông 01 gói thuốc phiện được gói bằng giấy ni lông màu trắng và 01 gói ni lông màu hồng chứa 02 viên nén màu hồng với giá 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy Hờ A C mang về cất giấu tại đầu giường ngủ và lấy 01 viên nén màu hồng ra sử dụng. Viên nén màu hồng còn lại C cất vào túi áo ngực đang mặc. Đến 08 giờ 50 phút ngày 02/7/2020 khi Hờ A C mang số thuốc phiện, 01 viên nén màu hồng còn lại cùng 01 bộ bàn đèn ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Đồn biên phòng NB phối hợp với Công an huyện NP phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng vụ án gồm 6,69 gam thuốc phiện và 0,11 gam Methamphetamine cùng 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Bản kết luận giám định số: 667/GĐ-PC09, ngày 12/7/2020 C phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

+ Mẫu viên nén màu hồng thu giữ C Hờ A C gửi giám định là chất ma túy. Loại Methamphetamine.

+ Mẫu chất dẻo màu nâu đen trích ra từ vật chứng thu giữ C Hờ A C gửi giám định là chất ma túy. Loại thuốc phiện.

+ Khối lượng vật chứng thu giữ C Hờ A C gồm: 6,69 gam chất dẻo màu nâu đen và 0,11 gam viên nén màu hồng.

Bản cáo trạng số: 54/CT-VKSNP ngày 01/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị can Hờ A C về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 C Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Hờ A C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội C mình đúng như nội dung bản cáo trạng C Viện kiểm sát nhân dân huyện NP đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện NP giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân C bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bị cáo Hờ A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hờ A C mức án từ 12 đến 18 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số thuốc phiện 05 (Năm) gam C bị cáo Hờ A C (sau khi trừ mẫu gửi giám định) và 01 bộ bàn đèn tự tạo. Đối với 0,11 gam Methamphetamine đã gửi toàn bộ làm mẫu giám định nên không cần đề cập xử lý.

Đề nghị miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hính sự: Xử phạt bị cáo Hờ A C mức thấp nhất theo đề nghị C đại diện Viện kiểm sát. Đồng thời xem xét hoàn cảnh gia đình miễn áp dụng hình phạt bổ sung và án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hờ A C.

Tại phiên tòa, bị cáo Hờ A C thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, không bổ sung gì bản bào chữa C người bào chữa; Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi phạm tội C bị cáo: Hồi 08 giờ 50 phút, ngày 02/7/2020, Hờ A C đã bị tổ công tác Đồn biên phòng NB bắt quả tang tại nhà khi đang chuẩn bị sử dụng ma túy, thu giữ 01 gói thuốc phiện có khối lượng 6,69 gam, 01 viên Methamphetamine và 01 bộ bàn đèn tự tạo với mục đích để sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung C vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố C Viện kiểm sát. Lời khai C bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai C bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định ngày 02/7/2020; Kết luận giám định số: 667/GĐ-PC09, ngày 12/7/2020 C Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên. Như vậy, bị cáo Hờ A C đã mua và cất giữ trái phép 02 chất ma túy là 6,69 gam thuốc phiện và 0,11 gam Methamphetamine. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 về việc tính tổng khối lượng các chất ma túy thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng C Methamphetamine và nhựa thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với từng chất được quy định tại khoản 1 C Điều 249 Bộ luật hình sự là 3,538% (dưới 100%). Vì vậy Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Hờ A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội C bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý đặc biệt các chất ma tuý C Nhà nước và gây ảnh hưởng xấu an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo Hờ A C là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi C mình là vi phạm pháp luật, để có ma túy sử dụng bị cáo đã mua ma túy tàng trữ, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi C bị cáo Hờ A C đã đi ngược lại với đường lối chủ trương C Đảng và Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Hờ A C từ nhỏ không được đi học, do không chịu rèn luyện bản thân và hiểu biết pháp luật hạn chế nên bị cáo đã sớm nghiện chất ma túy và có hành vi phạm tội trong vụ án này.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hờ A C chưa có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vậy hành vi C bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giữ vững kỷ cương C pháp luật góp phần đẩy lùi tội phạm ma tuý và nhằm răn đe, phòng ngừa chung trong nhân dân.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng C Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NP, Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định C Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Hờ A C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định C Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng C Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [6] Xét đề nghị và luận tội C đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định C pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét đề nghị C vị người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 C Bộ luật Hình sự, áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 C Bộ luật hình sự, xử phạt cho bị cáo Hờ A C mức án thấp nhất theo đề nghị C đại diện Viện kiểm sát; Cần được xem xét để áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội C bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249/BLHS, xét thấy bị cáo Hờ A C là người nghiện ma túy, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Hờ A C khai nhận đã mua thuốc phiện C 01 người đàn ông dân tộc Mông khoảng 50 tuổi không quen biết tại khu vực bản T 1, xã NB, huyện NP. Ngoài lời khai C bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh và xử lý đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo và buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[10] Về vật chứng vụ án: gồm 05 gam thuốc phiện (Sau khi trừ mẫu gửi giám định), 01 viên Methamphetamine có khối lượng 0,11 gam và 01 bộ bàn đèn tự tạo. Đối với khối lượng 0,11 gam Methamphetamine đã gửi toàn bộ làm mẫu giám định nên không cần đề cập xử lý. Cần tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 05 (năm) gam thuốc phiện và 01 bộ bàn đèn tự tạo là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 C Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: HĐXX xét thấy gia đình bị cáo Hờ A C là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định C Chính phủ nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hờ A C được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 C Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Hờ A C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

[2] Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hờ A C 15 (Mười lăm) tháng tù, kể từ ngày bắt: 02/7/2020.

[3] Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên tịch thu tiêu hủy 05 (năm) gam thuốc phiện (Sau khi trừ mẫu gửi giám định), 01 bộ bàn đèn tự tạo và toàn bộ phần giấy ni lông, phong bì niêm phong cũ C Đồn biên phòng NB, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện NP.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 C Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016: Bị cáo Hờ A C được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

358
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về