Bản án 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 05 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1999, tại xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q1 và bà Vũ Thị Đ; tiền án, tiền sự: không:

Bị cáo tại ngoại, bị cấm đi khỏi nơi cư trú.

Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Viết Đ và ông Bùi Văn Đ – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư T- thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội.

(Đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị hại: Ông Vũ Văn B, sinh năm 1943.

Địa chỉ: Thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Người đại diện theo pháp luật ông B : Bà Vũ Thị K, sinh năm 1947. Địa chỉ: Thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương.

(Là vợ ông B ).

Người đại diện theo ủy quyền của ông B (do bà K ủy quyền lại): Anh Vũ Công H, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Anh H có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1980. Địa chỉ: Thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương. Anh S có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hồng Q có giấy phép lái xe hạng A1 (được cấp năm 2018). Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 21/02/2020, Q điều khiển xe mô tô BKS 34B4-044.75 (nhãn hiệu Honda loại SH125) đi từ nhà ở xóm Ngoài đến xóm C thuộc thôn CX, xã TH, huyện B, tỉnh Hải Dương để xin bỗng rượu. Khi đi đến ngã ba giao nhau với đường đi vào xóm T thôn CX, do không chú ý quan sát nên Q không phát hiện thấy ông Vũ Văn B, sinh năm 1943 ở cùng thôn đang điều khiển xe đạp từ xóm T đi ra, rẽ phải theo hướng đi xóm Chùa, phần đầu xe mô tô do Q điều khiển đâm vào phía sau xe của ông B, làm xe của ông B đổ nghiêng trái trên đường, xe mô tô của Q mất lái lao về phía trước tại vị trí lề cỏ bên trái theo chiều đi của Q rồi đổ xuống mặt ruộng. Ông Vũ Văn B bị thương, được gia đình đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Việt Đức Hà Nội, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương từ ngày 21/02/2020 đến ngày 20/4/2020 .

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 255/TgT ngày 14/9/2020 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của ông Vũ Văn B hiện tại là 79% .

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 41/KL-HĐĐG ngày 09/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Giang, kết luận thiệt hại đối với xe đạp của ông Vũ Văn B là 130.000 đồng.

Khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra tai nạn, xác định: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là khu vực ngã ba đường thôn CX, là đường hai chiều không có giải phân cách cố định phân chia chiều đường, mặt đường rộng 2,5m được đổ bê tông bằng phẳng theo chiều xóm Ngoài đi xóm Chùa, bên phải đường là khu vực ao cá, tiếp đến là lối mở để đi xóm Trong và lề đường bên phải rộng 1,2m. Bên trái đường lề cỏ rộng 2,2m và khu ruộng thôn CX. Ở chính giữa khu vực ngã 3 trên lề đường trái đối diện giữa đường đi xóm Trong cách mép đường phải 50cm là vị trí cột điện, lối mở đi xóm Trong rộng 8,4m, có tầm nhìn tốt không có chướng ngại vật che chắn.

Điểm mốc là cột điện ở lề đường bên trái theo chiều xóm Ngoài đi xóm Chùa.

Theo chiều xóm Ngoài đi xóm Chùa, lấy mép đường bên trái làm chuẩn để xác định vị trí dấu vết liên quan. Cách cột điện ở bên lề đường trái 2,1m về hướng xóm Chùa trên mặt đường nửa đường bên phải là điểm đầu của vết cà sát có kích thước 2,4mx1cm dạng nét đứt, hơi cong có hướng xóm Ngoài đi xóm Chùa. Điểm đầu cuối của vết cà cách mép đường trái lần lượt là 2,17m và 63cm (V1). Cách điểm cuối của vết cà (V1) 5m về hướng xóm Chùa, ở sát mép đường bên trái, trên lề đường cỏ bên trái để lại là điểm đầu của vùng vết cây cỏ bị dập nát có kích thước 17,4mx15cm, có dạng đường thẳng hình vệt bánh xe có hướng xóm Ngoài đi xóm Chùa xiên chéo từ mép đường bên trái sang phía ruộng thôn CX. Điểm cuối của vùng này cách mép đường trái là 2,2m, tiếp giáp sát mép ruộng thôn CX (V2). Tại vị trí điểm cuối của (V2) là vùng đất ruộng bị xáo trộn không rõ hình vết có kích thước (2,5x1,5)m .

Khám xe môtô BKS 34B4-044.75 liên quan đến tai nạn, xác định: Mặt trước đầu xe để lại vùng vết va đập hướng trước lại sau làm bung rời toàn bộ mặt nạ dầu xe, tại khung càng phía trong trên diện (50x40)cm. Hai bên cánh yếm tại vị trí này bị dập vỡ đẩy lùi về phía sau, cụm đèn xinnhan phải trên cánh yếm phải bị vỡ rời khỏi xe; nhựa ốp cụm đèn pha đầu xe và mặt đồng hồ bị gãy chốt nhựa, bị xô đẩy, xộc xệch khỏi vị trí ban đầu; đầu mỏm chắn bùn phía trước đầu xe bị gãy vỡ nhựa kích thước (21x25)cm, bề mặt chắn bùn bị xây xước sơn màu đen. Mặt ngoài bánh lốp trước bên phải để lại vùng cọ xước cao su màu đen trên diện (32x4)cm theo chiều trên của lốp. Điểm cuối của vùng vết đối diện đầu chân van qua trục giữa bánh xe. Mặt ngoài sườn xe bên phải để lại vùng cọ sát, xước sơn màu đen kích thước (9x7)cm. Ốp nhựa để chân phía dưới bên trái tiếp giáp đuôi cánh yếm bên trái bị gãy vỡ, rời khỏi xe, xung quanh bề mặt nhựa ngoài của xe, vành bánh xe dính bám rải rác các vết đất nhỏ màu vàng.

Khám xe đạp do ông Vũ Văn B điều khiển liên quan đến tai nạn xác định: Loại xe nữ màu xanh tím than có giỏ xe phía trước. Giỏ xe phía trước để lại vết va đập hướng trước lại sau, trái sang phải làm bẹp móp biến dạng gập về sau trên diện (33x27)cm, bề mặt tấm lưới giỏ xe kim loại tại vị trí để giỏ bị thủng rách; cổ phốt, càng đầu xe phía trước bên trái bị bật rời khỏi trục bánh, trước bên trái, đầu cong về phía trước cách vị trí ban đầu 10cm; yên xe bị gãy gập nghiêng sang bên phải. Vành xe bánh sau để lại vùng vết va đập hướng trái sang phải làm gãy bẹp biến dạng trên diện (40x50)cm. Nan hoa tại vị trí này bị cong, bề mặt cong hướng sang phải. Chắn bùn phía sau bị xô đẩy lệch sang phải. Săm lốp xe bánh sau bị rách, thủng bung rời khỏi vị trí vành xe.

Ngày 15/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang đã trả lại xe đạp cho gia đình ông Vũ Văn B ; trả xe mô tô BKS 34B4-044.75 cho bị cáo Nguyễn Hồng Q theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 23 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm b khoản 1 điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố của bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ Về hình phạt: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, tính từ ngày đi thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không hành nghề lái xe nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Chấp nhận thỏa thuận tự nguyện về việc bồi thường thiệt hại của bị cáo và người đại diện bị hại về việc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 100 triệu đồng, đối trừ 40 triệu đã bồi thường, còn tiếp tục bồi thường số tiền 60 triệu đồng.

Xử lý vật chứng: Do không cấm bị cáo hành nghề lái xe, nên áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo giấy phép lái xe.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại trình bày quan điểm:

Về trách nhiệm hình sự, nhất trí với truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo vì bị cáo còn trẻ.

Về bồi thường thiệt hại: Mặc dù thiệt hại thực tế là lớn, nhưng xét hoàn cảnh bị cáo khó khăn, nên bị hại chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 60.000.000 đồng, ngoài 40.000.000 đồng đã bồi thường.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo vắng mặt, nhưng có văn bản ghi quan điểm bào chữa gửi đến Tòa án, theo đó:

Về hình phạt, xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục một phần thiệt hại; yếu tố hỗn hợp lỗi dẫn đến tai nạn, nên đề nghị cho bị cáo hưởng án treo nhằm tạo điều kiện tiếp tục khắc phục H quả về kinh tế, có điều kiện cải tạo thành người tốt.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo về trách nhiệm hình sự. Về phần trách nhiệm bồi thường, bị cáo nhất trí, chấp nhận yêu cầu bồi thường từ đại diện bị hại.

Tại phiên tòa, người làm chứng là anh Nguyễn Văn S trình bày: Anh trực tiếp chứng kiến vụ tai nạn xảy ra vào ngày 21/02/2020, trong điều kiện tầm nhìn, ánh sáng tốt, đủ để quan sát. Anh thấy bị cáo Q điều khiển xe mô tô đi theo hướng từ xóm Ngoài đi xóm Chùa thôn CX, xã TH. Khi đến đoạn ngã ba đường giao nhau với đường từ xóm Trong đi ra, xe của Q đã va chạm với xe đạp của ông B đi xóm Trong ra, rẽ theo hướng đi xóm Chùa. Xe của Q đâm vào phần sau của xe đạp của ông B, làm cả hai xe bị đổ ra đường. Ông B bị ngã xuống đường, bị thương và được mọi người đưa đi cấp cứu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo:

Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, kết luận giám định pháp y, lời khai của người làm chứng, nên có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 21/02/2020, tại ngã ba đường thôn CX, xã TH, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Hồng Q điều khiển xe mô tô BKS 34B4-044.75 đi từ hướng xóm Ngoài đi xóm Chùa đã đâm vào phía sau xe đạp do ông Vũ Văn B điều khiển từ đường xóm Trong đang rẽ phải hướng xóm Chùa phía trước cùng chiều với Q. H quả: ông B bị tổn hại 79% sức khỏe.

Nơi giao nhau tại ngã ba đường thôn CX là nơi đường giao nhau cùng mức theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật giao thông đường bộ 2008.

Hành vi của bị cáo khi đến nơi đường giao nhau cùng mức nhưng không giảm tốc độ (đến mức có thể dừng lại an toàn) là vi phạm quy định về tốc độ khi điều khiển xe mô tô tại khoản 3 Điều 5 của Thông tư số: 31/2019/TT-BGTVT ngày 29 tháng 8 năm 2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về tốc độ của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ, ngoài ra bị cáo không nhường đường cho xe của ông B đi vào điểm giao nhau từ phía bên phải của bị cáo, là vi phạm khoản 1 Điều 24 Luật giao thông đường bộ. Bị có có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi tham gia giao thông vi phạm các quy định của pháp luật về an toàn giao thông đường bộ, là nguyên nhân dẫn đến tai nạn khiến ông B bị thương tích 79% sức khỏe. Do vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo có nhân thân tốt, chưa phạm tội, vi phạm hành chính.

[4] Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường một phần cho bị hại; người đại diện bị hại xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [5] Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không hành nghề lái xe, nên không áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề đối với bị cáo.

[6]. Về bồi thường thiệt hại:

Đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo đã nhất trí thỏa thuận bồi thường, cụ thể bị cáo bồi thường cho bị hại tổng số 100 triệu đồng, đối trừ số tiền 40 triệu đồng đã bồi thường, bị cáo phải bồi thường tiếp số tiền 60.000.000 đồng. Xét thấy sự thỏa thuận của bị cáo, đại diện của bị hại là tự nguyện, không trái luật, đạo đức xã hội, nên cần chấp nhận.

Đối với xe đạp bị hỏng nhẹ, chi phí khắc phục không đáng kể, anh H không yêu cầu bồi thường, cần chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Do không cấm bị cáo hành nghề lái xe, nên áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại giấy phép lái xe cho bị cáo.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm là 3.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 48 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; điểm a khoản 2 Điều 2 Luật thi hành án dân sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Q phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày đi thi hành án.

Về bồi thường thiệt hại:

Công nhận thỏa thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại về bồi thường thiệt hại, cụ thể như sau: Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải bồi thường thiệt hại cho ông Vũ Văn B số tiền 100.000.000 đồng, đối trừ số tiền đã bồi thường là 40.000.000 đồng, bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày ông Vũ Văn B (hoặc Người đại diện hợp pháp của ông B ) có đơn yêu cầu thi hành án thì bị cáo Nguyễn Hồng Q còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành, theo lãi S quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.

Chấp nhận sự tự nguyện của bị hại không yêu cầu bồi thường chi phí khắc phục xe đạp bị hư hỏng.

Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hồng Q 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 330189008907 do Sở giao thông vận tải tỉnh Hưng Yên cấp ngày 10/5/2018 (trả ngay tại phiên tòa).

Về án phí : Áp dụng Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm; 3.000.000 (ba triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về