Bản án 03/2021/HS-PT ngày 07/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 03/2021/HS-PT NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 353/2020/TLPT-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo Trần T về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HS-ST ngày 17 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần T, sinh ngày 30/4/1986, tại tỉnh Quảng Nam.

Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Cơ khí; trình độ học vấn: 8/12; con ông Trần D, sinh năm 1964 và bà Trương Thị Diệu T, sinh năm 1965; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Trinh N, sinh năm 1985 và có 01 con; Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Phan Văn T1, sinh năm 1994, nơi cư trú: Thôn 23, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Trọng C, sinh năm 1993, nơi cư trú: Thôn 23, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 24/01/2020, tại quán bi da “Me” của chị Nguyễn Thị T2 ở thôn 23, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk giữa bị cáo Trần T, anh Vương Minh H, anh Phan Văn T1 và anh Nguyễn Trọng C xảy ra mâu thuẫn trong việc đánh bi da. Trong lúc cãi nhau thì bị cáo, anh H, anh T1 và anh C dùng tay, chân đánh nhau và giằng co qua lại. Thấy vậy, ông Nguyễn Văn T3 và bà Trương Thị C là bố mẹ vợ của bị cáo T, chị Nguyễn Thị T4 là chị vợ của T và chị Nguyễn Thị T5 là vợ của anh H cùng vào can ngăn. Ông Nguyễn Văn T3 và bà C kéo bị cáo ra, còn chị T4 và chị T5 đẩy anh C và T1 ra ngoài cổng, anh T1 định lao vào đánh bị cáo T nhưng ông Nguyễn Văn T3 ngăn lại. Chị T4 yêu cầu anh T1 ra khỏi nhà chị, lúc này bị cáo chạy vào phía trong bàn bi da lấy 01 cây cơ bi da, bẻ làm đôi và cầm một đoạn có chiều dài 0,74cm, có đường kính lớn nhất 3,5cm và đường kính nhỏ nhất 2,5cm chạy ra đánh 01 cái vào đầu của anh T1. Thấy vậy anh C lao đến can ngăn thì bị cáo dùng cây cơ bi da này đánh vào tay trái của anh C, sau đó được mọi người can ngăn nên sự việc kết thúc. Anh T1 và anh C được người nhà đưa đi bệnh viện đa khoa H để điều trị thương tích do bị cáo Trần T gây ra.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 289/TgT-TTPY ngày 10/3/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận anh Phan Văn T1 bị thương tích: 02%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 291/TgT-TTPY ngày 10/3/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận anh Nguyễn Trọng C bị thương tích: 01%.

Ngày 25/3/2020, người bị hại anh Phan Văn T1 và anh Nguyễn Trọng C có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Trần T về hành vi cố ý gây thương tích.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HSST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Trần T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt kể từ ngày chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/9/2020, bị cáo Trần T làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07/01/2021, TAND tỉnh Đắk Lắk nhận được đề nghị hoãn phiên tòa của bị cáo Trần T.

Quan điểm của đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị Trần T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS, chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 tháng tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Vào lúc 11 giờ ngày 07/01/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận được đơn đề nghị hoãn phiên tòa của bị cáo Trần t với lý do bố bị cáo bị bệnh nặng, ngoài đơn đề nghị bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bố bị cáo đang bị bệnh nặng. Sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan, đồng thời sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, HĐXX phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 351 BLTTHS, xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Lời khai của bị cáo Trần T tại phiên toà sơ thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 24/01/2020, tại quán bi da “Men’s coffee” của gia đình chị Nguyễn Thị T4 thuộc thôn 23, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo đã dùng một đoạn cơ bi da đánh anh Nguyễn Trọng C gây thương tích 01% và đánh anh Phan Văn T1 gây thương tích 02%. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đến thăm và bồi thường cho bị hại nhưng bị hại không nhận bồi thường. Do đó, HĐXX xét thấy cần chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do được chấp nhận đơn kháng cáo nên bị cáo Trần T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự ;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần T, sửa Bản án sơ thẩm số: 18/2020/HS- ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin về hình phạt đối với bị cáo Trần T.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần T 04 (Bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-PT ngày 07/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:03/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về