Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 344/2020/TLST-HNGĐ ngày 05/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Đồng Thị A, sinh năm: 1971;

Nơi cư trú: ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm: 1975;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Nơi tạm trú: ấp T, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

(Bà A có mặt, ông T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Đồng Thị A trình bày:

- Về hôn nhân: Bà A và ông T cưới nhau cách đây khoảng 30 năm, xác định có tình cảm với nhau và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 19/5/2008 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại xã C, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông T thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn, vợ chồng nhiều lần tranh cãi nhau.

Ông bà đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Hiện tại bà A xác định không còn tình cảm với ông T nên bà A yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông T.

- Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có hai con chung tên Trần T, sinh ngày 08/10/1992 đã thành nhiên tự nuôi sống bản thân và Trần Q, sinh ngày 02/7/2006. Con hiện đang sống chung với bà A. Sau khi ly hôn bà A yêu cầu được nuôi con chung tên Trần Q. Bà A yêu cầu T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 745.000 đồng.

- Về tài sản chung: không có không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho bà A và ông T nhưng ông T đều vắng mặt và cũng không gởi bất kỳ văn bản trình bày ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của bà A.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bà A thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự, ông T chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A. Về con chung: Đề nghị giao con chung tên Nguyễn Q cho bà A tiếp tục nuôi dưỡng. Buộc ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 745.000 đồng. Riêng con chung tên Trần T đã thành niên, tự nuôi sống bản thân nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà A khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với ông T. Theo xác nhận của công an xã C vào ngày 30/10/2020 thì ông T hiện đang sinh sống tại ấp Thới Trị, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về hôn nhân: Bà A cho rằng bà và ông T cưới nhau khoảng năm 1990 nhưng đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn. Theo bản chính giấy chứng nhận kết hôn do bà A cung cấp thể hiện Ủy ban nhân dân xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre chứng nhận kết hôn cho bà A và ông T vào ngày 19/5/2008. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi cưới nhau, thời gian đầu ông bà sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Bà A cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do ông T không lo làm ăn, không còn thương yêu, chăm sóc vợ con. Do đó ông T đã dọn về nhà mẹ ruột ở Châu Hòa sinh sống và ly thân với ông T từ năm 2017 cho đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải để tạo điều kiện hàn gắn cho ông bà. Tuy nhiên, ông T không đến tham dự phiên hòa giải và cũng không gởi bất kỳ văn bản nào thể hiện ý kiến mong muốn hàn gắn với bà A.

Theo biên bản xác minh thu thập chứng cứ ngày 25/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre, nội dung biên bản thể hiện theo địa phương được biết thì bà A và ông T thường xuyên cãi nhau, có khi đA nhau nên ông T đã dọn về Châu Hòa ở, không còn chung sống với bà A tại Châu Bình.

Từ đó có đủ cơ sở khẳng định hôn nhân của bà A và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà A để giải quyết cho bà A được ly hôn với ông T.

[3] Về con chung: Xét yêu cầu của bà A được nuôi con chung tên Trần Q, Hội đồng xét xử nhận thấy từ năm 2017 đến nay (trong thời gian ông T và bà A sống riêng), con chung vẫn do bà A nuôi dưỡng, con vẫn được chăm sóc và phát triển bình thường. Tại biên bản ghi ý kiến của cháu Trần Q vào ngày 04/12/2020, cháu Quý cũng mong muốn được tiếp tục sống với bà A. Do đó cần tiếp tục giao cháu Quý cho bà A tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng cho con: Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 và khoản 1 Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì bà A có quyền yêu cầu ông T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Quý.

Căn cứ Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình, nhằm đảm bảo cho các nhu cầu thiết yếu của cháu Quý nên việc bà A yêu cầu ông T cấp dưỡng cho con mỗi tháng 745.000 đồng bằng với ½ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Riêng con chung tên Trần T, sinh năm 1992 đã thành niên, tự lao động nuôi sống bản thân nên không xem xét giải quyết. [4] Bà A cho rằng về tài sản chung, nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Ông T vắng mặt tại Tòa, nếu sau này có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung với bà A thì được quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Bà A phải chịu án phí ly hôn 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), ông T phải chịu án phí đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đồng Thị A cụ thể tuyên:

[1] Về hôn nhân: Bà Đồng Thị A được ly hôn với ông Trần Văn T.

[2] Về con chung: Giao con chung tên Trần Q, sinh ngày 02/7/2006 cho bà Đồng Thị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Buộc ông Trần Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Trần Q theo định kỳ hàng tháng với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 745.000 đồng (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng). Thời gian cấp dưỡng được tính kể từ ngày tuyên án (ngày tuyên án là ngày 14/01/2021) cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình.

Ông Trần Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: không có. [4] Về án phí:

Buộc bà Đồng Thị A phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002573 ngày 05 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà Đồng Thị A đã nộp xong án phí.

Buộc ông Trần Văn T phải nộp án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

[5] Về quyền kháng cáo bản án: Bà Đồng Thị A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày tuyên án là ngày 14/01/2021). Ông Trần Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về