Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 654/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Cao Thị Thu T, sinh năm: 1984;

Địa chỉ: Số A, đường T, Phường B, Tp M, tỉnh Tiền Giang. Tạm trú: Tổ Q, ấp B, xã C, TP M, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Tạ Hoài P, sinh năm: 1981;

Địa chỉ: Số K đường P, Phường H, TP M, tỉnh Tiền Giang.

(có mặt chị T, vắng mặt anh P)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 09/10/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Cao Thị Thu T trình bày: Chị và anh Tạ Hoài P tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh P không lo làm ăn thường xuyên rượu chè, mỗi khi nhậu say thì anh P chửi bới xúc phạm chị, chị đã nhiều lần khuyên nhưng anh P không thay đổi. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: có 03 con chung là Tạ Cao Kim N, sinh ngày 12/7/2004, Tạ Cao Kiều N, sinh ngày 12/7/2008 và Tạ Cao Hoài N, sinh ngày 17/11/2013. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, yêu cầu anh P mỗi tháng cấp dưỡng nuôi 03 con chung số tiền 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con trưởng thành.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Tạ Hoài P đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng vẫn không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của chị T.

* Tại phiên tòa, chị Cao Thị Thu T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của chị T là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T được ly hôn với anh P, về con chung giao con chung cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, về mức cấp dưỡng nuôi con chị T yêu cầu là phù hợp nên chấp nhận; Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Cao Thị Thu T và anh Tạ Hoài P kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân Phường B, TP M, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 14/12/2005. Ngày 09/10/2020 chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh P đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Tạ Hoài P cư trú tại số K đường P, Phường H, TP M, tỉnh Tiền Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn anh Tạ Hoài P đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có mặt để dự phiên tòa mà không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Tạ Hoài P theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Thu T và anh Tạ Hoài P được Ủy ban nhân dân Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật, xác định hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị T và anh P sống chung với nhau hạnh phúc được thời gian đầu, đến năm 2017 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị T trình bày là anh P không lo làm ăn thường xuyên rượu chè, mỗi khi nhậu say thì anh P chửi bới xúc phạm chị, chị đã nhiều lần khuyên nhưng anh P không thay đổi, từ đó mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Thời gian kéo dài chị T cho rằng không còn tình cảm với anh P nữa nên dọn về nhà mẹ ruột ở tổ Q, ấp B, xã C, TP M, tỉnh Tiền Giang sống ly thân với anh P từ đầu năm 2020 cho đến nay.

Xét thấy, từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa xét xử hôm nay, Tòa án đã triệu tập anh P đến để tham dự phiên toà, nhưng anh P vắng mặt không có lý do, nên không đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Việc anh P không đến dự phiên toà là mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng đoàn tụ với nhau. Tại phiên tòa chị T trình bày không còn tình cảm, không muốn tiếp tục chung sống đời sống vợ chồng với anh P nên đã nộp đơn ly hôn và vẫn cương quyết ly hôn, cho thấy hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 03 con chung là Tạ Cao Kim N, sinh ngày 12/7/2004, Tạ Cao Kiều N, sinh ngày 12/7/2008 và Tạ Cao Hoài N, sinh ngày 17/11/2013. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi 03 con chung, yêu cầu anh P mỗi tháng cấp dưỡng nuôi 03 con chung số tiền 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con trưởng thành.

Xét thấy, các con chung hiện nay chưa đủ 18 tuổi, đang trực tiếp chung sống với chị T và cũng có nguyện vọng muốn được chung sống với mẹ, nên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung khi ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về mức cấp dưỡng nuôi con, chị T yêu cầu anh P mỗi tháng cấp dưỡng nuôi 03 con chung số tiền 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con trưởng thành. Xét thấy yêu cầu của chị T là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi các con chung tròn 18 tuổi lao động được. Anh P có quyền đến thăm và chăm sóc con chung, không ai được cản trở anh P thực hiện quyền này.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 92, 147, 189, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 8, 9, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị Thu T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Thu T được ly hôn với anh Tạ Hoài P;

- Về con chung: Giao cháu Tạ Cao Kim N, sinh ngày 12/7/2004, Tạ Cao Kiều N, sinh ngày 12/7/2008 và Tạ Cao Hoài N, sinh ngày 17/11/2013 cho chị Cao Thị Thu T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Anh Tạ Hoài P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền 3.000.000 đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con chung tròn 18 tuổi lao động được.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Chị Cao Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002139 ngày 09/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Cao Thị Thu T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Tạ Hoài P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 06/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về