Bản án 03/2020/HSST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2020/HSST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2019/HSST ngày 19/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 03/01/2020 đối với bị cáo:

Lư văn T, tên gọi khác: G; giới tính: Nam; sinh năm: 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 380A đường LVT, Khu phố A, phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Như trên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 01/12; nghề nghiệp: không; con ông: Lư Văn H, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1952; tiền án: Ngày 21/01/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 02/2016/HSST, ngày 29/5/2018 chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giam từ ngày 01/11/2019 cho đến nay, có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Tiến T1, sinh năm 1998.

Địa chỉ: 50/4/8A, Khu phố A, phường Đ, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 24 giờ 00 phút, ngày 23/9/2019, Lư văn T đến tiệm Internet Tycoon, địa chỉ: đường A, khu phố B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh để chơi điện tử. Đến khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 24/9/2019, T ra về thì thấy một nam thanh niên đang nằm ngủ trên ghế bố gần cửa cuốn lối ra vào của tiệm Internet. Đồng thời phát hiện cửa cuốn bên góc trái của cửa tiệm mở, phía trong có nhiều xe máy nên T nảy sinh ý định lấy cắp. T định lấy cắp một xe máy dựng ở phía ngoài nhưng xe này khóa cổ. Sau đó, T đi vào bên trong thì phát hiện xe máy hiệu Honda Winner biển số 59B1-568.09 của anh Nguyễn Tiến T1 là nhân viên dọn vệ sinh của tiệm Internet Tycoon, không khóa cổ nên T dắt chiếc xe này ra khỏi tiệm, đến một con hẻm đường 42, phường Bình Trưng Đông, Quận 2 rồi lấy cục đá ven đường đập vỡ mặt nạ xe, rút 02 dây điện đấu nối với nhau, khởi động xe và điều khiển về quận Bình Thạnh. Tại đây, T liên lạc với một người bạn tên Phi Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) để nhờ bán xe máy dùm. Sau đó, T điều khiển chạy xe máy trên đến cầu Bình Lợi, quận Bình Thạnh gặp Phi Nhóc và đưa Phi Nhóc đi bán được 10.000.000 đồng. T giữ lại 8.000.000 đồng và cho Phi Nhóc 2.000.000 đồng. Sau đó, T đón xe ôm về Quận 2, sống lang thang ở nhiều nơi.

Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 24/9/2019, anh T1 lấy xe máy để đi về thì phát hiện bị mất trộm nhưng đến ngày 14/10/2019, anh T1 mới đến Công an phường Bình Trưng Tây trình báo sự việc. Cùng ngày 14/10/2019, Công an Quận 2 đã phát hiện, đưa T về Công an phường Cát Lái, Công an phường Bình Trưng Tây làm việc. Sau đó, gửi T tại Cơ sở Tư vấn và cai nghiện ma túy Bình Triệu do T phải chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 98/QĐ-TA ngày 22/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận 2. Quá trình làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2, Lư văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung đã nêu trên.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 394/HĐĐGTS-TCKH ngày 08/11/ 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - y ban nhân dân Quận 2. Kết luận: 01 (một) xe máy hiệu Honda Winner biển số 59B1-568.09 có giá trị là: 32.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 thu giữ: 01 USB ghi lại hình ảnh Lư văn T chiếm đoạt xe máy tại tiệm Internet Tycoon vào ngày 24/9/2019. Đây là chứng cứ vụ án đề nghị lưu hồ sơ.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Tiến T1 yêu cầu Lư văn T bồi thường 32.000.000 đồng nhưng Lư văn T chưa bồi thường.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKSQ2 ngày 16/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Lư văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Lư văn T khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 24/9/2019 đã lén lút trộm cắp xe máy hiệu Honda Winner biển số 59B1-568.09 của anh Nguyễn Tiến T1 để tại tiệm Internet Tycoon, địa chỉ: đường A, phường B, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 32.000.000 đồng. Do đó, hành vi trên của Lư văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý nghiêm minh để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T đã bị kết án về tội cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản do l i cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù.

Bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lư văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và tổ chức được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm do đã có án tích chưa được xóa lại tiếp tục phạm tội mới, đây là quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự nên cần phải áp dụng đới với bị cáo. Xét sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên Tòa bị cáo tự nguyện thỏa thuận sẽ bồi thường lại số tiền 32.000.000 đồng cho anh T1 mà không cần anh T1 phải chứng minh, xét đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các đương sự và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với: 01 USB ghi lại hình ảnh Lư văn T chiếm đoạt xe máy tại tiệm Internet Tycoon vào ngày 24/9/2019. Đây là chứng cứ vụ án nên tiếp tục lưu theo hồ sơ.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lư văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lư văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/11/2019.

2.Về phần dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 357; Điều 468; Điều 584; Điều 585; Điều 586; Điều 590 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo T phải có trách nhiệm bồi thường cho anh T1 số tiền:

32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng, thi hành tại Cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày anh T1 có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo T không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ đối với số tiền trên thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu trả số tiền lãi cho anh T1 theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên Tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HSST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:03/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về