Bản án 03/2020/HS-PT ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 03/2020/HS-PT NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2019/HS-PT ngày 09 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Lê Xuân T; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

- Bị cáo có kháng cáo: Lê Xuân T, sinh năm 1968; Nơi cư trú: thôn Th, xã Y, huyện D, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M và con bà Lê Thị T; vợ Đặng Thị B và có 03 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị giam giữ từ ngày 08/8/2019 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo: Đặng Thị B, sinh năm 1970; nơi cư trú: thôn Th, xã Y, huyện D, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Việt H, sinh năm 1985; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Nguyễn Văn C, sinh năm 1960; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 08/8/2019, tại khu vực đường ĐH492 thuộc địa phận thôn P, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã Hợp Lý đang làm nhiệm vụ phát hiện Lê Xuân T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 09D1 - 066.44 có biểu hiện nghi vấn nên đã kiểm tra hành chính, phát hiện tại giá đèo hàng ở giữa xe T đang điều khiển có một vỏ bao thuốc lá Thăng Long, tiến hành kiểm tra thấy bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng dạng cục, được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT, T khai là ma túy mua về để sử dụng cá nhân. Ngoài ra, còn thu giữ của T 01 xe mô tô BKS 09D1 - 066.44.

Khám xét khẩn cấp nhà của Lê Xuân T không thu giữ được tài liệu, đồ vật nào liên qua đến vụ án.

Quá trình điều tra chị Đặng Thị B (vợ T) giao nộp 01 đăng ký xe mô tô BKS 09D1 - 066.44.

Tại Bản giám định số 152/PC09-MT ngày 12/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,232 gam, loại Heroine”.

Tại Bản định giá tài sản số 33/KL-ĐGTS ngày 18/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Lý Nhân kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 90D1 - 066.44 có giá trị 12.100.000 đồng.

Về nguồn gốc số Heroine, Lê Xuân T khai mua của một người lạ mặt tên Tám ở khu vực xã H, huyện L với giá 150.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam tuyên bố bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Xuân T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2019. Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Trong thời hạn luật định, ngày 05/11/2019 bị cáo Lê Xuân T kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; đề nghị xử phạt bị cáo Lê Xuân T từ 18 đến 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân T nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt để bị cáo sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung đơn kháng cáo: Bị cáo Lê Xuân T kháng cáo trong thời hạn luật định, đơn thể hiện đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Xuân T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 08/8/2019, tại khu vực đường ĐH492 thuộc thôn P, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, Lê Xuân T có hành vi cất giấu trái phép 0,232 gam ma túy, loại Heroin trên xe mô tô BKS 90D1 - 066.44 với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện. Với hành vi trên, bị cáo Lê Xuân T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Lê Xuân T, cấp phúc thẩm thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương; ma túy rất nguy hiểm đến sức khỏe con người, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác nếu không được ngăn chặn kịp thời. Tuy nhiên, xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; gia đình có ông ngoại là Liệt sỹ, ông nội được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì; bố đẻ được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; tại phiên tòa, vợ bị cáo xuất trình đơn nêu hoàn cảnh gia đình khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, với mức hình phạt 24 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đối với bị cáo có phần nghiêm khắc nên Tòa án cấp phúc thẩm xét giảm một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình.

[4] Án phí: Do yêu cầu kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên bị cáo không phải nộp.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Lê Xuân T;

sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 của Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về phần hình phạt đối với bị cáo T.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2019.

2. Án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Xuân T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-PT ngày 15/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về