Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 03/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 50/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Thúy K, sinh năm 2000

Trú tại: thôn T 2, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm 1992.

Trú tại: Tổ 5, Khối 1, thị trấn P, huyện T, tỉnh B. Vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn yêu cầu ly hôn), bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn là chị Huỳnh Thị Thúy K trình bày:

Chị và anh Trần Văn L tự nguyện tìm hiểu yêu thương nhau được hai bên gia đình chấp nhận, tiến hành tổ chức đám cưới theo phong tục vào năm 2017. Có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn P vào ngày 26/01/2018.

Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chồng không chú tâm làm ăn mà thường xuyên rượu chè về gây sự đánh đập, chửi bới xúc phạm chị, chị vẫn chịu đựng chung sống nhưng tình trạng không tiến triển. Đến tháng 10/2019 vợ chồng cắt đứt quan hệ phần ai nấy sống, bỏ mặc, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay xét thấy vợ chồng không còn tình cảm yêu thương gì nữa. Chị yêu cầu được ly hôn anh Trần Văn L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Huỳnh Khánh Ng (giới tính nữ), sinh ngày 29/10/2018. Con chung hiện do vợ chồng đang nuôi dưỡng chăm sóc. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng chăm sóc con chung đến trưởng thành và yêu cầu anh Trần Văn L cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng), bắt đầu từ tháng 02/2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ nần chung: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 03/02/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là anh Trần Văn L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh thống nhất với lời trình bày của chị K về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Lý do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống hay kình cãi nhau. Nay xét thấy không còn tình cảm yêu thương nhau, vợ anh yêu cầu ly hôn, anh cũng đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Huỳnh Khánh Ng (giới tính nữ), sinh ngày 29/10/2018. Con chung hiện do vợ chồng đang nuôi dưỡng chăm sóc. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi dưỡng chăm sóc con chung đến trưởng thành không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn phát biểu ý kiến: về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét HĐXX từ khi Tòa thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật tố tụng của các đương sự đúng theo quy định;

Về nội dung vụ án: Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; áp dụng các Điều 8, 9, 55, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên xử: công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thúy K và anh Trần Văn L; về con chung: giao con chung Trần Huỳnh Khánh Ng (giới tính nữ), sinh ngày 29/10/2018 cho chị Huỳnh Thị Thúy K chăm sóc, nuôi dưỡng; anh Trần Văn L cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng), bắt đầu từ tháng 02/2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về án phí: giải quyết theo quy định của pháp luật 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trần Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Thúy K và anh Trần Văn L có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Phú Phong vào ngày 26/01/2018 đúng theo quy định tại các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi cưới, vợ chồng chung sống được khoảng 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn nhưng chị vẫn chịu đựng chung sống. Nguyên nhân chính là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 10/2019 vợ chồng cắt đứt quan hệ phần ai nấy sống, bỏ mặc, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị K yêu cầu ly hôn và anh L cũng đồng ý là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử công nhận.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Huỳnh Khánh Ng (giới tính nữ), sinh ngày 29/10/2018, chị K là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung.

Xét con chung chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc tỷ mỉ của người mẹ, để đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho con trẻ, áp dụng quy định tại các Điều 81 và các 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nghị nên chấp nhận yêu cầu của chị K, giao con chung (Trần Huỳnh Khánh Ng) cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng chăm sóc đến trưởng thành.

Anh Trần Văn L yêu cầu được nuôi dưỡng chăm sóc con chung đến trưởng thành không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con nhưng không phù hợp với thực tế, quy định của pháp luật và chị K không đồng ý nên HĐXX không chấp nhận.

Về tiền cấp dưỡng nuôi con: để đảm bảo quyền lợi của con chung chấp nhận yêu cầu của chị K buộc anh Trần Văn L cấp dưỡng nuôi con chung Trần Huỳnh Khánh Ng) hàng tháng, mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng), bắt đầu từ tháng 02/2020 cho đến khi con Trần Huỳnh Khánh Ng) đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản chung: Các bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì chị Huỳnh Thị Thúy K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai số 0006536 ngày 03/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn; chị K đã nộp đủ án phí.

Về án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: anh Trần Văn L có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điều 273, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 8, 9, 55, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Thúy K, tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Thúy K và anh Trần Văn L.

- Về con chung: Giao con chung tên Trần Huỳnh Khánh Ng (giới tính nữ), sinh ngày 29/10/2018 cho Huỳnh Thị Thúy K được tiếp tục nuôi dưỡng đến trưởng thành.

Bác yêu cầu của anh Trần Văn L về việc được nhận nuôi dưỡng chăm sóc con chung đến trưởng thành, không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con vì không phù hợp với thực tế, quy định của pháp luật và chị K không đồng ý.

Buộc anh Trần Văn L phải cấp dưỡng nuôi con chung Trần Huỳnh Khánh Ng hàng tháng, mỗi tháng 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng), bắt đầu từ tháng 02/2020 cho đến khi con Trần Huỳnh Khánh Ng đủ 18 tuổi.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom, giúp đỡ con chung, không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Các bên đương sự không yêu cầu nên miễn xét.

2/ Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Thúy K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai số 0006536 ngày 03/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn; chị K đã nộp đủ án phí.

Về án phí của ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng nuôi con: Anh Trần Văn L có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

3/ Các bên đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết Bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:03/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về